Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Lậu Phân Bố

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13321)
Kinh Lậu Phân Bố


PHẬT NÓI KINH LẬU PHÂN BỐ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0057 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Hậu Hán, Tam tạng Pháp sư An Thế Cao.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại Hành trị xứ danh vi pháp (đô ấp kiếm ma sắc đàm Câu Lâu?), nước Câu Lưu.

Bấy giờ người nước Câu Lưu đang sinh sống tại đó. Khi ấy đức Phật bảo các Tỳ kheo; các Tỳ kheo thưa: “Dạ vâng”, và theo đức Phật để nghe dạy. Ðức Phật liền nói như vầy:

–Tỳ kheo hãy lắng nghe, ta sẽ thuyết pháp, phần đầu cũng lợi, phần giữa cũng lợi, phần cuối cũng lợi, có lợi ích, có phương tiện, đầy đủ ý hiển hiện phạm hạnh. Hãy nên lắng nghe cho kỹ, thọ trì kỹ để nhớ nghĩ điều được nghe.

Các Tỳ kheo thưa: “Ðúng vậy!”. Và theo đức Phật để nghe thuyết pháp. Ðức Phật bèn nói như vầy:

–Tỳ kheo phải biết lậu, cũng phải biết nguồn gốc, cũng phải biết do lậu mà thọ lấy tai ương, cũng phải biết sự phân bố của lậu, cũng phải biết sự chấm dứt của lậu, cũng phải biết thọ hành gì khiến cho hết lậu. Tỳ kheo phải biết thống, cũng phải biết nguyên nhân của thống, cũng phải biết do thống mà bị tai ương, cũng phải biết sự phân bố của thống, cũng phải biết sự chấm dứt của thống, cũng phải biết thọ hành gì để hết thống. Tỳ kheo nên biết tư tưởng, cũng nên biết nguồn gốc của tư tưởng, cũng nên biết do tư tưởng mà thọ lấy tai ương, cũng nên biết sự phân bố của tư tưởng, cũng nên biết thọ hành gì để chấm dứt tư tưởng.

Tỳ kheo phải biết ái dục, cũng phải biết nguồn gốc của ái dục, cũng phải biết do ái dục mà thọ tai ương, cũng phải biết sự phân bố của ái dục, cũng phải biết sự chấm dứt của ái dục, cũng phải biết thọ hành gì để không còn ái dục.

Tỳ kheo phải biết hành, cũng phải biết nguyên nhân của hành, cũng phải biết vì hành mà bị tai ương, cũng phải biết sự phân bố của hành, cũng phải biết sự chấm dứt của hành, cũng phải biết thọ trì hạnh gì để không còn hành.

Tỳ kheo phải biết khổ, cũng phải biết nguyên nhân của khổ, cũng phải biết vì khổ mà bị tai ương, cũng phải biết sự phân bố của khổ, cũng phải biết sự chấm dứt của khổ, cũng phải biết thọ hành gì để không còn khổ.

Tỳ kheo phải biết lậu, cũng phải biết nguyên nhân của lậu, cũng phải biết vì lậu mà bị tai ương, cũng phải biết sự phân bố của lậu, cũng phải biết sự chấm dứt của lậu, cũng phải biết thọ hành gì mà hết lậu.

Những gì gọi là phải biết lậu? Ðó là có ba lậu:

1. Dục lậu.

2. Hữu lậu.

3. Si lậu.

Như vậy là biết lậu.

Những gì gọi là phải biết nguồn gốc của lậu? Ðó là: si là gốc của lậu, do đó mà lậu hiện hữu. Như vậy là biết nguồn gốc của lậu.

Những gì gọi là do lậu mà có tai ương? Ðó là do si mà có hành động lậu, hành động thế nào thì phải thọ lấy tai ương như vậy, hoặc sanh chỗ tốt, hoặc đọa vào chỗ xấu. Như vậy là biết do lậu mà thọ lấy tai ương.

Những gì gọi là biết sự phân bố của lậu? Ðó là do hành động sai khác mà đọa vào địa ngục, hoặc do hành động sai khác mà đọa vào súc sanh, hoặc do hành động sai khác mà đọa vào ngạ quỷ, hoặc do hành động sai khác mà sanh lên trời, hoặc do hành động sai khác mà sanh vào loài người. Như vậy gọi là biết sự phân bố của lậu.

Sao gọi là phải biết sự chấm dứt của lậu? Ðó là si đã chấm dứt nên lậu liền chấm dứt, như vậy lậu chấm dứt. Ðó là biết sự chấm dứt của lậu.

Những gì là phải biết thọ trì hạnh gì để lậu chấm dứt? Ðó là tám thứ đạo hạnh:

1. Trực kiến.

2. Trực cánh.

3. Trực ngữ.

4. Trực hành.

5. Trực nghiệp.

6. Trực phương tiện.

7. Trực niệm.

8. Trực định.

Như vậy là biết thọ trì hạnh gì để chấm dứt lậu.

Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đã biết lậu như vậy, biết nguyên nhân của lậu như vậy, biết do lậu mà phải thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của lậu như vậy, biết sự chấm dứt của lậu như vậy, biết thọ hành nên khiến lậu được chấm dứt như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, chán, lìa thế gian, hành thanh tịnh nên được đắc đạo, làm cho các lậu được chấm dứt.

Tỳ kheo phải biết thống, cũng phải biết nguyên nhân của thống, cũng phải biết vì thống mà thọ tai ương, cũng phải biết sự phân bố của thống, cũng phải biết sự chấm dứt của thống, cũng phải biết thọ hành gì khiến cho chấm dứt thống.

Những gì là phải biết thống? Ðó là có ba loại thống:

1. Lạc thống.

2. Khổ thống.

3. Cũng không lạc không khổ thống.

Như vậy là biết thống.

Những gì là phải biết nguồn gốc của thống? Ðó là do suy tư điều hư vọng. Như vậy là biết nguồn gốc của thống.

Những gì là phải biết do thống mà thọ tai ương? Ðó là có loại suy tư xúc đưa đến sự khổ. Như vậy là biết từ thống đưa đến tai ương.

Những gì là phải biết sự phân bố của thống? Này Tỳ kheo, Tỳ kheo tiếp xúc với lạc thống (thọ) thì biết là tiếp xúc lạc thống, tiếp xúc với khổ thống thì biết là tiếp xúc với khổ thống, tiếp xúc với không khổ không lạc thống thì biết là đang tiếp xúc với không lạc không khổ thống; thân tiếp xúc với lạc thống thì biết là thân tiếp xúc với lạc thống, thân tiếp xúc với khổ thống thì biết là thân tiếp xúc với khổ thống, thân tiếp xúc với không khổ không lạc thống thì biết là thân tiếp xúc với không khổ không lạc thống; tâm niệm tiếp xúc với lạc thống thì biết là tâm niệm tiếp xúc với lạc thống, tâm niệm tiếp xúc với khổ thống thì biết là tâm niệm tiếp xúc với khổ thống, tâm niệm tiếp xúc với không khổ không lạc thống thì biết là tâm niệm tiếp xúc với không khổ không lạc thống. Lạc thống do mong cầu mà có thì biết lạc thống do mong cầu mà có. Khổ thống do mong cầu mà có thì biết khổ thống do mong cầu mà có. Không khổ không lạc thống do mong cầu mà có thì biết không khổ không lạc thống do mong cầu mà có. Lạc thống không do mong cầu mà có thì biết lạc thống không do mong cầu mà có. Khổ thống không do mong cầu mà có thì biết khổ thống không do mong cầu mà có. Không khổ không lạc thống không do mong cầu mà có thì biết không khổ không lạc thống không do mong cầu mà có. Lạc thống do sống trong gia đình thì biết lạc thống do sống trong gia đình. Khổ thống do sống trong gia đình thì biết khổ thống do sống trong gia đình. Không khổ không lạc thống do sống trong gia đình thì biết không khổ không lạc thống do sống trong gia đình. Lạc thống nhờ bỏ gia đình thì biết lạc thống nhờ bỏ gia đình. Khổ thống nhờ bỏ gia đình thì biết khổ thống nhờ bỏ gia đình. Không khổ không lạc thống nhờ bỏ gia đình thì biết không khổ không lạc thống nhờ bỏ gia đình. Như vậy là biết sự phân bố của thống.

Những gì là phải biết sự chấm dứt của thống? Ðó là nhớ nghĩ đến sự từ bỏ thì thống liền chấm dứt. Như vậy là biết sự chấm dứt của thống.

Những gì là phải biết thọ hành để thống chấm dứt? Ðó là tám thứ đạo hạnh:

1. Trực kiến.

2. Trực cánh.

3. Trực ngữ.

4. Trực hành.

5. Trực nghiệp.

6. Trực phương tiện.

7. Trực niệm.

8. Trực định.

Như vậy là biết thọ hành để chấm dứt thống.

Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đã biết thống như vậy, biết nguyên nhân của thống như vậy, biết do thống mà bị tai ương như vậy, biết sự phân bố của thống như vậy, biết sự chấm dứt của thống như vậy, biết thọ hành để chấm dứt thống như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, chán, lìa thế gian, nhờ hành thanh tịnh nên được đạo, làm cho thống được chấm dứt.

Tỳ kheo phải biết tư tưởng, phải biết nguồn gốc của tư tưởng, phải biết do tư tưởng mà thọ lấy tai ương, cũng phải biết sự phân bố của tư tưởng, cũng phải biết thọ hành gì để chấm dứt tư tưởng.

Những gì là phải biết tư tưởng? Ðó là có bốn loại tư tưởng:

1. Tư tưởng ít.

2. Tư tưởng nhiều.

3. Tư tưởng vô lượng.

4. Tư tưởng vô sở hữu bất dụng.

Như vậy là biết tư tưởng.

Những gì là phải biết nguồn gốc của tư tưởng? Tập là nguồn gốc của tư tưởng. Như vậy là biết nguồn gốc của tư tưởng.

Những gì là phải biết từ tư tưởng mà có tai ương? Ðó là như điều tư tưởng làm, như điều tư tưởng hành. Ðó gọi là việc làm, hành động. Như vậy là biết do tư tưởng mà thọ tai ương.

Những gì là phải biết sự phân bố của tư tưởng? Ðó là tư tưởng về sắc thì khác, tư tưởng về tiếng cũng khác, tư tưởng về hương cũng khác, tư tưởng về vị cũng khác, tư tưởng về sự thô, tế của thân cảm xúc cũng khác. Như vậy là biết sự phân bố của tư tưởng.

Những gì là phải biết sự chấm dứt của tư tưởng? Ðó là tư tưởng đã hết thì tư tưởng liền chấm dứt. Như vậy là biết sự chấm dứt của tư tưởng.

Những gì là phải biết thọ hành để chấm dứt tư tưởng? Ðó là tám loại chủng hạnh: 1- Trực kiến. 2- Trực cánh. 3- Trực ngữ. 4- Trực hành. 5- Trực nghiệp. 6- Trực phương tiện. 7- Trực niệm. 8- Trực định. Như vậy là biết thọ hành để chấm dứt tư tưởng.

Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đã biết tư tưởng như vậy, biết nguồn gốc của tư tưởng như vậy, biết do tư tưởng mà phải thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của tư tưởng như vậy, biết sự chấm dứt của tư tưởng như vậy, biết thọ hành nên khiến tư tưởng được chấm dứt như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, chán, lìa thế gian, hành thanh tịnh nên được đắc đạo, khiến cho chấm dứt tư tưởng.

Tỳ kheo phải nên biết ái dục, cũng phải biết nguồn gốc của ái dục, cũng phải biết do ái dục đưa đến tai ương, cũng phải biết sự phân bố của ái dục, cũng phải biết sự chấm dứt của ái dục, cũng phải biết thọ hành gì để chấm dứt ái dục.

Những gì là phải biết ái dục? Ðó là ái dục có năm loại: dục đắc, dục tối tại tâm, dục ái, sắc tùy ý đưa đến tham trước, thân cận. Những gì là năm?

1. Các sắc do nhãn căn nhận thức khả ái, dục đắc, dục tối thượng đối với tâm, dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.

2. Các tiếng do lỗ tai nhận thức thì dục đắc, dục tối thượng với tâm, dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.

3. Các hương do lỗ mũi nhận thức thì dục đắc, dục tối thượng với tâm, dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.

4. Các vị do miệng nhận thức là dục đắc, dục tối thượng đối với tâm, dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.

5. Các xúc thô, tế do thân cảm xúc biết được, dục đắc, dục tối thượng đối với tâm, dục ái, sắc tùy ý, khả tham, dễ gần gũi.

Như vậy là biết được ái dục.

Những gì là biết nguồn gốc của ái dục? Ðó là Tư. Như vậy là biết nguồn gốc của ái dục.

Những gì là biết vì ái dục phải thọ tai ương? Nếu đã làm ra ái dục, đã sanh dục vọng, liền có tranh cãi, mong chờ, liền sanh tư tưởng tai ương. Vì vậy phải tùy thuận tai ương hoặc đến chỗ tốt, hoặc vào chỗ dữ. Như vậy là biết do ái dục mà thọ lấy tai ương.

Những gì là phải biết sự phân bố của ái dục? Ðó là ái dục sắc thì khác, ái dục của thinh cũng khác, ái dục của hương cũng khác, ái dục của mùi vị cũng khác, ái dục do thân tiếp xúc vật thô tế cũng khác. Như vậy là biết sự phân bố của ái dục.

Những gì là biết sự chấm dứt của ái dục? Ðó là Tư đã chấm dứt thì ái liền chấm dứt. Như vậy là biết sự chấm dứt của ái dục.

Những gì là biết thọ hành để chấm dứt ái dục? Ðó là tám thứ đạo hạnh:

1. Trực kiến.

2. Trực cánh.

3. Trực ngữ.

4. Trực hành.

5. Trực nghiệp.

6. Trực phương tiện.

7. Trực niệm.

8. Trực định.

Như vậy là biết thọ hành để chấm dứt ái dục.

Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đã biết ái dục như vậy, biết nguyên nhân của ái dục như vậy, biết do ái dục mà phải thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của ái dục như vậy, biết sự chấm dứt của ái dục như vậy, biết thọ hành để chấm dứt ái dục như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, chán, lìa thế gian, hành thanh tịnh, được đắc đạo, khiến cho ái dục được chấm dứt.

Tỳ kheo cần phải biết hành, cũng phải biết nguồn gốc của hành, cũng phải biết do hành mà thọ lấy tai ương hay phước đức, cũng phải biết sự phân bố của hành, cũng phải biết sự chấm dứt của hành, cũng phải biết thọ hành gì thì chấm dứt hành.

Những gì là phải biết hành? Ðó là điều nhớ nghĩ không xa lìa, gọi là hành.

Những gì là biết nguồn gốc của hành? Ðó là từ ái dục có hữu vi, từ hành động ái có gốc hành. Như vậy là biết nguồn gốc của hành.

Những gì là biết do hành mà phải thọ tai ương hay phước đức? Ðó là hành động đen tối phải bị tai ương xấu ác khiến phải sa đọa, có hành động thanh bạch, khiến cho có phước thanh bạch, được sanh lên cao. Ðó là biết do hành mà phải thọ lấy tai ương hay phước đức.

Những gì là phải biết sự phân bố của hành? Ðó là có hành động đen tối phải theo sự đen tối mà thọ lấy tai ương, có hành động thanh bạch thì nhờ sự thanh bạch mà được phước đức thanh bạch. Vì có hành động đen tối hay thanh bạch nên đưa đến nghiệp đen hay trắng, tai ương hay phước đức. Cũng có hành động chẳng phải đen, cũng chẳng phải thanh bạch, nhờ đó được phước đức, mỗi hành mỗi hành đều chấm dứt hoàn toàn. Như vậy là biết sự phân bố của hành.

Những gì là phải biết sự chấm dứt của hành? Ðó là ái đã hết thì hành liền hết. Như vậy là biết sự chấm dứt của hành.

Những gì là biết thọ hành để chấm dứt hành động? Ðó là tám thứ đạo hạnh:

1. Trực kiến.

2. Trực cánh.

3. Trực ngữ.

4. Trực hành.

5. Trực nghiệp.

6. Trực phương tiện.

7. Trực niệm.

8. Trực định.

Như vậy là biết thọ hành để chấm dứt hành.

Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo đã biết hành như vậy, biết căn bổn của hành như vậy, biết do hành mà phải thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của hành như vậy, biết sự chấm dứt của hành như vậy, biết thọ hành để chấm dứt hành như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, yểm ly thế gian, hành thanh tịnh nên được đắc đạo, khiến cho chấm dứt hành hoàn toàn.

Tỳ kheo phải biết khổ, cũng phải biết nguyên nhân của khổ, cũng phải biết vì khổ mà thọ lấy tai ương, cũng phải biết sự phân bố của khổ, cũng phải biết sự chấm dứt của khổ, cũng phải biết thọ hành gì để chấm dứt khổ.

Những gì là Tỳ kheo phải biết khổ? Ðó là Tỳ kheo phải biết sanh là khổ, phải biết già là khổ, biết bệnh là khổ, phải biết chết là khổ, phải biết oán thù gặp nhau là khổ, phải biết ái biệt ly là khổ, phải biết cầu mong không được là khổ, phải biết nguồn gốc của năm ấm là khổ. Như vậy là biết khổ.

Những gì là phải biết nguồn gốc của khổ? Gốc là si, si là nguồn gốc của khổ. Như vậy là biết nguồn gốc của khổ.

Những gì là phải biết do khổ mà thọ lấy tai ương? Ðó là người thế gian ngu si không nghe kinh điển, ở trong thân cảm xúc khổ thống kịch liệt, sự đau khổ kịch liệt không thể chịu nổi, phải nên chấm dứt ý nghĩ đó, vì theo bên ngoài, cầu mong pháp hữu vi bên ngoài, căn cứ bên ngoài mà cầu mong. Có Sa môn, Bà la môn từ một câu, hai câu, ba câu, bốn câu, năm câu, một trăm câu trì chú để cúng tế làm cho nhờ vậy mà thân được thoát khổ, hay đó là tai ương của khổ. Như vậy là biết do khổ mà thọ lấy tai ương.

Những gì là phải biết sự phân bố của khổ? Ðó là có khổ ít mà thọ tai ương lâu dài, hoặc là có khổ ít mà không bị tai ương tật bệnh, hoặc có khổ nhiều mà thọ tai ương lâu dài, hoặc khổ nhiều mà thoát tai ương tật bệnh. Như vậy là biết sự phân bố của khổ.

Những gì là phải biết sự chấm dứt của khổ? Ðó là si đã chấm dứt thì khổ liền chấm dứt. Như vậy là biết sự chấm dứt của khổ.

Những gì là phải biết thọ hành để chấm dứt khổ? Ðó là tám thứ đạo hạnh:

1. Trực kiến.

2. Trực cánh.

3. Trực ngữ.

4. Trực hành.

5. Trực nghiệp.

6. Trực phương tiện.

7. Trực niệm.

8. Trực định.

Như vậy là biết thọ hành để chấm dứt khổ.

Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đã biết khổ như vậy, biết nguyên nhân của khổ như vậy, biết vì khổ mà thọ tai ương như vậy, biết sự phân bố của khổ như vậy, biết sự chấm dứt của khổ như vậy, biết thọ hành để chấm dứt khổ như vậy. Ðó gọi là Tỳ kheo hối hận, chán, lìa thế gian, hành thanh tịnh được đắc đạo, để chấm dứt khổ đau.

Ðức Phật nói như vậy, các Tỳ kheo thọ trì lời Phật dạy, trong tâm vui mừng thực hành, theo đó thực hành, đạt được vô vi thanh tịnh.

 

PHẬT NÓI KINH LẬU PHÂN BỐ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26228)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27537)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27927)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26724)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31243)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20281)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22963)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30077)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21594)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20281)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22682)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20781)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30336)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28799)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34739)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44247)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35534)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22562)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21386)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20700)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24769)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37937)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19070)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19351)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21849)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20885)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29533)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35163)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28841)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32617)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26233)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28938)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43164)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34979)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43954)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37922)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21342)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43036)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49027)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39856)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53800)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36832)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40827)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49743)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47331)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27745)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27038)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27242)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24081)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20861)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34326)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22484)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25135)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25859)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22960)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22477)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21767)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23329)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21192)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 29897)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant