Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh A Nậu Phong

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11155)
Kinh A Nậu Phong


PHẬT NÓI KINH A NẬU PHONG


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0058 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Ðông tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Ðàm Vô Lan

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy:

Một thời Bà Già Bà ở tại Bạt Kỳ thành, tên gọi là A Nậu Phát. Bấy giờ đức Thế Tôn, sau giờ ngọ, từ thiền tọa đứng dậy, bảo tôn giả A Nan rằng:

–Này A Nan, chúng ta hãy cùng nhau đến bờ ao A Di Ðà Bà để tắm rửa.

Tôn giả A Nan thưa:

–Dạ vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả A Nan vâng theo lời dạy của đức Thế Tôn. Khi ấy đức Thế Tôn cùng tôn giả A Nan và các Tỳ kheo tùy tùng đi đến bờ ao A Di Ðà Bà. Ðến xong, ở trên bờ ao A Di Ðà Bà cởi y phục để trên bờ ao, rồi xuống ao A Di Ðà Bà tắm, tắm xong lên bờ lau mình (và mặc y phục vào).

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo tôn giả A Nan:

–Này A Nan, người có phóng dật như Ðề Bà Ðạt Ðâu, khi bỏ chỗ này phải đọa vào ác thú Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu vớt được. Này A Nan, thầy có nghe các Tỳ kheo nói lời này rằng: “Ta đã ghi nhận nhất quyết rằng Ðề Bà Ðạt Ðâu phải đọa vào ác thú Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu vớt được” không?

Tôn giả A Nan đáp:

–Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Vì sao? Vì con có nghe điều này. Bạch Thế Tôn, con có nghe một vị Tỳ kheo nói với con rằng: “Thế nào, này hiền giả A Nan, đức Thế Tôn biết rõ những ý nghĩ, những hành động trong tâm của Ðề Bà Ðạt Ðâu chăng? Hay Ngài dùng các phương tiện khác để biết nên Ngài mới ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu phải đọa vào ác thú Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu thoát”.

Ðức Thế Tôn dạy:

–Này A Nan, Tỳ kheo ấy hoặc là thượng tôn, hoặc là niên thiếu, hay còn nhỏ, là kẻ thiếu trí tuệ. Vì sao? Vì Như lai đã ghi nhận nhất quyết, nhưng vị ấy vẫn còn nghi hoặc. Này A Nan, ta không thấy có thiên, ma, phạm, Sa môn, Bà la môn, chúng thiênloài ngườithế gian này mà ta đã ghi nhận nhất quyết như vậy là phải đọa vào ác thú Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu như Ðề Bà Ðạt Ðâu. Vì sao? Này A Nan, ta ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu chắc chắn phải đọa vào ác thú Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu thoát. Này A Nan, ta không thấy Ðề Bà Ðạt Ðâu có một chút pháp bạch tịnh, cho dù nhỏ như một sợi lông. Nếu ta thấy y có một chút pháp bạch tịnh thì ta đã không ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu chắc chắn phải đọa vào ác thú Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu thoát. Cho nên này A Nan, vì ta không thấy Ðề Bà Ðạt Ðâu có một chút pháp bạch tịnh, cho dù nhỏ như một sợi lông. Nếu ta thấy y có một chút pháp bạch tịnh nên ta mới ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu chắc chắn phải đọa vào ác xứ, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu thoát.

–Này A Nan, ví như cách thôn nọ không xa có một hầm phẩn lớn đầy phẩn hôi thối, hoặc có một người bị lọt vào trong đó, chìm xuống tận đáy. Hoặc có người trông thấy, suy nghĩ như vầy: “Ta có lòng thương xót muốn kẻ ấy được lợi ích, muốn cứu vớt kẻ ấy để kẻ ấy được an ổn”. Người ấy đứng trên hầm phẩn lớn đấy quán sát chung quanh để xem người ấy có chỗ nào không bị dính phẩn, dù nhỏ như một sợi lông để nắm kẻ ấy kéo lên. Người ấy đứng trên hầm phẩn lớn nhìn khắp thân thể của người kia nhưng không thấy có một chỗ nào, dù nhỏ như một sợi lông sợi tóc mà không bị dính phân để có thể nắm kéo lên được. Cũng vậy, này A Nan, ta không thấy Ðề Bà Ðạt Ðâu có một chút pháp bạch tịnh bằng một sợi lông, sợi tóc. Nếu y có một chút pháp bạch tịnh thì ta không ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu phải đọa vào chỗ ác Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu thoát. Cho nên này A Nan, ta không thấy Ðề Bà Ðạt Ðâu có một chút pháp bạch tịnh, dù bằng một sợi lông do đó ta ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu phải đọa vào chỗ ác, sanh trong địa ngục suốt cả một kiếp, khó có thể cứu thoát.

Bấy giờ tôn giả A Nan rơi nước mắt khóc lóc, chắp tay hướng về đức Thế Tôn thưa rằng:

–Kính bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu. Nay Thế Tôn đã ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu phải đọa vào chỗ ác Nê Lê, sanh trong địa ngục, ở đấy trọn kiếp, khó có thể cứu thoát.

Ðức Thế Tôn dạy:

–Ðúng vậy, A Nan. Ðúng vậy, A Nan. Ta ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu phải đọa vào chỗ ác Nê Lê, sanh trong địa ngục, ở đấy trọn kiếp, khó có thể cứu thoát. Này A Nan, hãy nghe đức Như Lai Phân biệt Ðại nhơn căn tướng, chắc chắn sẽ có niềm tin, ý sanh hoan hỷ tối thượng đối với Như Lai.

Khi ấy tôn giả A Nan chắp tay hướng về đức Thế Tôn thưa rằng:

–Bạch đức Thế Tôn, nay quả là đúng lúc. Cúi mong đức Thế Tôn giảng cho các Tỳ kheo nghe về Phân biệt Ðại nhơn căn tướng. Khi nghe đức Thế Tôn giảng xong, các Tỳ kheo sẽ khéo thọ trì.

Ðức Thế Tôn dạy:

–Này A Nan, hãy lắng nghe, hãy khéo suy nghĩ, ta sẽ nói cho.

Tôn giả A Nan thưa:

–Dạ vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả A Nan vâng theo lời Phật dạy, đức Phật bảo:

–Này A Nan, Như Lai biết ý nghĩ của người khác, người ấy cùng tương ưng với thiện pháp, tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết tâm ý của người đó diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người ấy đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện rồi, nhưng thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt. Từ thiện căn đó, lại sẽ phát sanh thiện pháp. Như vậy, người này sẽ đạt được pháp ý thanh tịnh. Này A Nan, giống như sáng sớm, mặt trời vừa xuất hiện, bóng tối liền diệt hết, ánh sáng liền phát sanh. Này A Nan, ý thầy thế nào? Mặt trời lên dần cho đến giờ ăn trưa, phải chăng bóng tối đã diệt, thì có ánh sáng hiện không?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết những điều suy niệm trong tâm người khác, người này cùng tương ưng với pháp thiện, cũng tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết những điều suy nghĩ trong tâm người ấy, biết người này diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện, nhưng thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt. Từ thiện căn đó sẽ lại phát sanh pháp thiện. Như vậy, người này sẽ đạt được pháp ý thanh tịnh. Này A Nan, ví như hạt lúa giống không hư, không vỡ, không mục, không nứt, không bị gió làm thương tổn, được cất giấu an ổn trong vựa lúa. Người cư sĩ làm ruộng kia sửa sang, cày bừa thửa ruộng ngay thẳng xong, gieo hạt lúa vào và mưa xuống đúng lúc, thì này A Nan, ý thầy thế nào? Người ấy có được thu hái nhiều hạt lúa chăng?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, được nhiều hạt.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết những điều suy nghĩ trong tâm ý người khác, biết người này cùng tương ưng với pháp thiện, tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết những điều suy nghĩ trong tâm người ấy, biết họ diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người ấy đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện, rồi có những thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt. Từ thiện căn đó thiện pháp sẽ lại phát sanh. Như vậy, người này sẽ đạt được pháp ý thanh tịnh. Này A Nan, đó gọi là Như Lai nói về Ðại nhân căn tướng vậy. Cũng vậy, Như Lai biết rõ chỗ quay về của các pháp.

Lại nữa, này A Nan, Như Lai biết những điều suy nghĩ trong tâm ý người khác, biết người này cùng tương ưng với pháp thiện, tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết những điều suy nghĩ trong tâm người này, biết người này diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện rồi, thiện căn có từ trước không đoạn tuyệt, nhưng tất cả thiện căn ấy rồi sẽ đoạn tuyệt. Như vậy, người này có pháp đoạn tuyệt. Này A Nan, giống như từ lúc xế chiều mặt trời lặn ánh sáng diệt hết, bóng tối sanh ra. Này A Nan, ý thầy thế nào? Sau khi mặt trời lặn, không phải giờ ăn, ánh sáng đã tắt hết thì bóng tối sanh ra chăng?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết những suy nghĩ trong tâm của người khác, biết người này cùng tương ưng với pháp thiện, tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết những ý nghĩ trong tâm người ấy, người này diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện rồi, đã có thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt, rồi tất cả sẽ đoạn tuyệt. Như vậy, người này đi đến pháp đoạn tuyệt. Này A Nan, giống như hạt lúa giống không hư, không vỡ, không mục, không nứt, không bị gió làm thương tổn, để an ổn trong vựa lúa. Nếu người cư sĩ kia sửa sang, cày bừa ruộng ngay thẳng, tốt rồi gieo hạt vào, nhưng mưa không phải thời, thì này A Nan, ý thầy thế nào? Có được nhiều hạt lúa không?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, không thể được nhiều hạt.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết ý nghĩ trong tâm của người khác, biết người này tương ưng với pháp thiện, tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết tâm niệm của người ấy diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người đó đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện rồi, nhưng thiện căn có trước đây vẫn không đoạn tuyệt, thì nay sẽ đoạn tuyệt. Như vậy, người này có pháp đoạn tuyệt. Này A Nan, như vậy, là Như Lai nói về Ðại nhân căn tướng. Như vậy là pháp tướng của Như Lai, pháp tướng sanh ra Ngài đều biết rõ.

Lại nữa, này A Nan, Như Lai biết ý niệm của người khác, ta không thấy người này có một chút pháp bạch tịnh dù nhỏ như sợi lông sợi tóc. Người này một mực chỉ toàn là pháp ác bất thiện trói buộc, trở lại bị quả báo phiền nhiệt khổ sở, phải bị sanh, già, bệnh, chết. Như vậy, người này khi thân hoại mạng chung phải sanh trong địa ngục. Này A Nan, giống như hạt lúa giống bị hư, vỡ, mục nát, bị gió làm thương tổn, không được cất giấu cẩn thận. Nếu người cư sĩ làm ruộng ấy không ra sức cày đất, không làm cho đất thuần thục, bằng phẳng rồi gieo hạt giống xuống và mưa không phải thời, thì này A Nan, ý thầy thế nào? Người ấy có được nhiều lúa chăng?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, dạ không.

Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết ý niệm của người khác. Ta không thấy người này có một chút thiện pháp dù nhỏ như sợi lông sợi tóc. Người này một mực chỉ toàn là pháp ác bất thiện trói buộc, nên trở lại bị quả báo nóng bức khổ não, phải chịu sự sanh, già, bệnh, chết. Như vậy, người ấy sau khi thân hoại mạng chung phải sanh trong địa ngục. Như vậy, này A Nan, Như Lai nói về Ðại nhân căn tướng như vậy. Như Lai đối với các pháp hỗ tương sinh ra Ngài đều biết rõ.

Khi ấy tôn giả A Nan chắp tay hướng Phật thưa rằng:

–Bạch Thế Tôn, Ngài đã thuyết giảng về ba hạng người như vậy. Như Lai có thể thuyết giảng về ba hạng người khác nữa được chăng?

Ðức Phật dạy:

–Này A Nan, ta có thể nói. Này A Nan, Như Lai hoặc biết ý niệm của người khác, biết người này cùng tương ưng với pháp thiện, cũng tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết tâm ý của người này, người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện. Người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện rồi, nhưng bất thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt. Từ pháp thiện đó lại sanh pháp thiện (?). Như vậy, người này đối với pháp bất thiện sẽ đoạn tuyệt. Này A Nan, ví như có lửa cháy, ngọn lửa cứ tự nhiên cháy, hoặc có người đẩy cỏ khô lên rồi chất củi khô lên. Này A Nan, ý thầy thế nào? Ngọn lửa càng bốc cháy mạnh lên chăng?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết tâm ý của người khác, người này cùng tương ưng với pháp bất thiện, tương ưng với pháp thiện. Sau đó Như Lai biết tâm ý của người này, người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện. Người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện rồi, nhưng bất thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt. Từ pháp bất thiện đó lại sanh pháp bất thiện. Như vậy, người này đi đến pháp hủy diệt. Này A Nan, như vậy gọi là Như Lai nói về Ðại nhân căn tướng. Cũng vậy, Như Lai biết các pháp hỗ tương sanh ra Ngài đều biết rõ.

Lại nữa, này A Nan, Như Lai biết tâm ý của người khác, người này cùng tương ưng với pháp bất thiện, cũng tương ưng với pháp thiện. Sau đó Như Lai biết tâm ý của người này, người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện. Người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện rồi, nhưng bất thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt, tất cả rồi sẽ đoạn tuyệt. Như vậy người này đi đến pháp ý thanh tịnh rốt ráo. Này A Nan, ví như đốt lửa, ngọn lửa tự nhiên bốc lên, có người đem lửa đang cháy để trên đất khô, hoặc để trên đá. Này A Nan, ý thầy thế nào? Ngọn lửa có bốc cháy mạnh lên chăng?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, không thể bốc cháy mạnh được.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết ý niệm của người khác, người này cùng tương ưng với pháp bất thiện, cũng tương ưng với pháp thiện. Sau đó Như Lai biết tâm niệm của người này, người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện. Người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện rồi, bất thiện căn còn sót lại từ trước vẫn chưa đoạn tuyệt, nhưng rồi tất cả sẽ đoạn tuyệt. Như vậy, người đó đạt được pháp thanh tịnh hoàn toàn. Này A Nan, như vậy là Như Lai đã nói về Ðại nhân căn tướng. Cũng vậy, Như Lai biết các pháp hỗ tương sanh ra Ngài đều biết rõ.

Lại nữa, này A Nan, Như Lai biết tâm ý suy nghĩ của người khác. Ta không thấy người ấy có hắc nghiệp dù nhỏ như sợi lông, sợi tóc. Người ấy hoàn toàn có đầy đủ pháp thiện, hạnh thiện và quả báo thiện, thân kẻ ấy tương ưng với chỗ thiện. Như vậy, người ấy ngay trong đời này chắc chắn chứng Niết bàn. Này A Nan, ví như lửa đã tắt, mát lạnh, không còn nóng nữa, hoặc có người lấy cỏ khô bỏ vào trong ấy, này A Nan, ý thầy thế nào? Nó có thể bốc cháy không?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, không thể được.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết ý niệm của người khác. Ta không thấy người này có hắc nghiệp dù nhỏ như sợi lông, sợi tóc. Người ấy hoàn toàn có đầy đủ pháp thiện, hạnh thiện và quả báo thiện, thân kẻ ấy tương ưng với chỗ thiện. Như vậy, người ấy ngay trong đời này chứng Bát Niết bàn. Này A Nan, như vậy là Như Lai nói về Ðại nhân căn tướng. Cũng vậy, Như Lai đối với các pháp hỗ tương sanh ra Ngài đều biết rõ.

Này A Nan, ba hạng người nói trên kia, hạng thứ nhất đạt được pháp thanh tịnh, hạng thứ hai có pháp hoại diệt, hạng thứ ba khi thân hoại mạng chung chắc chắn đọa vào chỗ ác, sanh trong địa ngục. Ba hạng người ta nói sau đó, hạng người thứ nhất có pháp hủy diệt, hạng thứ hai có pháp thanh tịnh, hạng thứ ba ngay trong đời này chứng đắc Bát Niết bàn.

Này A Nan, ta đã nói về Ðại nhân căn tướng. Như đấng Thế Tôn thương yêu đệ tử, muốn được lợi ích, ta đã nói cho thầy nghe. Nay thầy phải ở chỗ vắng vẻ, ngồi dưới gốc câythiền định, tư duy chớ có phóng dật, đừng để về sau phải hối hận. Ðó là lời giáo huấn của ta. Ðó là lời khuyên bảo của ta.

Ðức Phật thuyết pháp như vậy, các Tỳ kheo sau khi nghe đức Thế Tôn dạy, hoan hỷ phụng hành.

 

PHẬT NÓI KINH A NẬU PHÁT

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23953)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41211)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19688)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23974)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23292)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27498)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26554)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29309)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33177)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20180)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25761)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20903)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31301)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38553)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21425)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44242)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29814)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42188)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22131)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45736)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32103)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23947)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24377)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29245)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33909)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27677)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32121)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21058)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28841)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21562)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28055)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22058)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21421)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19490)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19457)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19831)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19235)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29171)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20607)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28273)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23647)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33163)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31832)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21363)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39612)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21543)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19368)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24811)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21750)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22373)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29126)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22552)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20467)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23510)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21229)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35307)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24541)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31333)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant