Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh A Nậu Phong

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11149)
Kinh A Nậu Phong


PHẬT NÓI KINH A NẬU PHONG


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0058 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Ðông tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Ðàm Vô Lan

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy:

Một thời Bà Già Bà ở tại Bạt Kỳ thành, tên gọi là A Nậu Phát. Bấy giờ đức Thế Tôn, sau giờ ngọ, từ thiền tọa đứng dậy, bảo tôn giả A Nan rằng:

–Này A Nan, chúng ta hãy cùng nhau đến bờ ao A Di Ðà Bà để tắm rửa.

Tôn giả A Nan thưa:

–Dạ vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả A Nan vâng theo lời dạy của đức Thế Tôn. Khi ấy đức Thế Tôn cùng tôn giả A Nan và các Tỳ kheo tùy tùng đi đến bờ ao A Di Ðà Bà. Ðến xong, ở trên bờ ao A Di Ðà Bà cởi y phục để trên bờ ao, rồi xuống ao A Di Ðà Bà tắm, tắm xong lên bờ lau mình (và mặc y phục vào).

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo tôn giả A Nan:

–Này A Nan, người có phóng dật như Ðề Bà Ðạt Ðâu, khi bỏ chỗ này phải đọa vào ác thú Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu vớt được. Này A Nan, thầy có nghe các Tỳ kheo nói lời này rằng: “Ta đã ghi nhận nhất quyết rằng Ðề Bà Ðạt Ðâu phải đọa vào ác thú Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu vớt được” không?

Tôn giả A Nan đáp:

–Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Vì sao? Vì con có nghe điều này. Bạch Thế Tôn, con có nghe một vị Tỳ kheo nói với con rằng: “Thế nào, này hiền giả A Nan, đức Thế Tôn biết rõ những ý nghĩ, những hành động trong tâm của Ðề Bà Ðạt Ðâu chăng? Hay Ngài dùng các phương tiện khác để biết nên Ngài mới ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu phải đọa vào ác thú Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu thoát”.

Ðức Thế Tôn dạy:

–Này A Nan, Tỳ kheo ấy hoặc là thượng tôn, hoặc là niên thiếu, hay còn nhỏ, là kẻ thiếu trí tuệ. Vì sao? Vì Như lai đã ghi nhận nhất quyết, nhưng vị ấy vẫn còn nghi hoặc. Này A Nan, ta không thấy có thiên, ma, phạm, Sa môn, Bà la môn, chúng thiênloài ngườithế gian này mà ta đã ghi nhận nhất quyết như vậy là phải đọa vào ác thú Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu như Ðề Bà Ðạt Ðâu. Vì sao? Này A Nan, ta ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu chắc chắn phải đọa vào ác thú Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu thoát. Này A Nan, ta không thấy Ðề Bà Ðạt Ðâu có một chút pháp bạch tịnh, cho dù nhỏ như một sợi lông. Nếu ta thấy y có một chút pháp bạch tịnh thì ta đã không ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu chắc chắn phải đọa vào ác thú Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu thoát. Cho nên này A Nan, vì ta không thấy Ðề Bà Ðạt Ðâu có một chút pháp bạch tịnh, cho dù nhỏ như một sợi lông. Nếu ta thấy y có một chút pháp bạch tịnh nên ta mới ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu chắc chắn phải đọa vào ác xứ, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu thoát.

–Này A Nan, ví như cách thôn nọ không xa có một hầm phẩn lớn đầy phẩn hôi thối, hoặc có một người bị lọt vào trong đó, chìm xuống tận đáy. Hoặc có người trông thấy, suy nghĩ như vầy: “Ta có lòng thương xót muốn kẻ ấy được lợi ích, muốn cứu vớt kẻ ấy để kẻ ấy được an ổn”. Người ấy đứng trên hầm phẩn lớn đấy quán sát chung quanh để xem người ấy có chỗ nào không bị dính phẩn, dù nhỏ như một sợi lông để nắm kẻ ấy kéo lên. Người ấy đứng trên hầm phẩn lớn nhìn khắp thân thể của người kia nhưng không thấy có một chỗ nào, dù nhỏ như một sợi lông sợi tóc mà không bị dính phân để có thể nắm kéo lên được. Cũng vậy, này A Nan, ta không thấy Ðề Bà Ðạt Ðâu có một chút pháp bạch tịnh bằng một sợi lông, sợi tóc. Nếu y có một chút pháp bạch tịnh thì ta không ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu phải đọa vào chỗ ác Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu thoát. Cho nên này A Nan, ta không thấy Ðề Bà Ðạt Ðâu có một chút pháp bạch tịnh, dù bằng một sợi lông do đó ta ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu phải đọa vào chỗ ác, sanh trong địa ngục suốt cả một kiếp, khó có thể cứu thoát.

Bấy giờ tôn giả A Nan rơi nước mắt khóc lóc, chắp tay hướng về đức Thế Tôn thưa rằng:

–Kính bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu. Nay Thế Tôn đã ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu phải đọa vào chỗ ác Nê Lê, sanh trong địa ngục, ở đấy trọn kiếp, khó có thể cứu thoát.

Ðức Thế Tôn dạy:

–Ðúng vậy, A Nan. Ðúng vậy, A Nan. Ta ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu phải đọa vào chỗ ác Nê Lê, sanh trong địa ngục, ở đấy trọn kiếp, khó có thể cứu thoát. Này A Nan, hãy nghe đức Như Lai Phân biệt Ðại nhơn căn tướng, chắc chắn sẽ có niềm tin, ý sanh hoan hỷ tối thượng đối với Như Lai.

Khi ấy tôn giả A Nan chắp tay hướng về đức Thế Tôn thưa rằng:

–Bạch đức Thế Tôn, nay quả là đúng lúc. Cúi mong đức Thế Tôn giảng cho các Tỳ kheo nghe về Phân biệt Ðại nhơn căn tướng. Khi nghe đức Thế Tôn giảng xong, các Tỳ kheo sẽ khéo thọ trì.

Ðức Thế Tôn dạy:

–Này A Nan, hãy lắng nghe, hãy khéo suy nghĩ, ta sẽ nói cho.

Tôn giả A Nan thưa:

–Dạ vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả A Nan vâng theo lời Phật dạy, đức Phật bảo:

–Này A Nan, Như Lai biết ý nghĩ của người khác, người ấy cùng tương ưng với thiện pháp, tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết tâm ý của người đó diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người ấy đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện rồi, nhưng thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt. Từ thiện căn đó, lại sẽ phát sanh thiện pháp. Như vậy, người này sẽ đạt được pháp ý thanh tịnh. Này A Nan, giống như sáng sớm, mặt trời vừa xuất hiện, bóng tối liền diệt hết, ánh sáng liền phát sanh. Này A Nan, ý thầy thế nào? Mặt trời lên dần cho đến giờ ăn trưa, phải chăng bóng tối đã diệt, thì có ánh sáng hiện không?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết những điều suy niệm trong tâm người khác, người này cùng tương ưng với pháp thiện, cũng tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết những điều suy nghĩ trong tâm người ấy, biết người này diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện, nhưng thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt. Từ thiện căn đó sẽ lại phát sanh pháp thiện. Như vậy, người này sẽ đạt được pháp ý thanh tịnh. Này A Nan, ví như hạt lúa giống không hư, không vỡ, không mục, không nứt, không bị gió làm thương tổn, được cất giấu an ổn trong vựa lúa. Người cư sĩ làm ruộng kia sửa sang, cày bừa thửa ruộng ngay thẳng xong, gieo hạt lúa vào và mưa xuống đúng lúc, thì này A Nan, ý thầy thế nào? Người ấy có được thu hái nhiều hạt lúa chăng?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, được nhiều hạt.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết những điều suy nghĩ trong tâm ý người khác, biết người này cùng tương ưng với pháp thiện, tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết những điều suy nghĩ trong tâm người ấy, biết họ diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người ấy đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện, rồi có những thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt. Từ thiện căn đó thiện pháp sẽ lại phát sanh. Như vậy, người này sẽ đạt được pháp ý thanh tịnh. Này A Nan, đó gọi là Như Lai nói về Ðại nhân căn tướng vậy. Cũng vậy, Như Lai biết rõ chỗ quay về của các pháp.

Lại nữa, này A Nan, Như Lai biết những điều suy nghĩ trong tâm ý người khác, biết người này cùng tương ưng với pháp thiện, tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết những điều suy nghĩ trong tâm người này, biết người này diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện rồi, thiện căn có từ trước không đoạn tuyệt, nhưng tất cả thiện căn ấy rồi sẽ đoạn tuyệt. Như vậy, người này có pháp đoạn tuyệt. Này A Nan, giống như từ lúc xế chiều mặt trời lặn ánh sáng diệt hết, bóng tối sanh ra. Này A Nan, ý thầy thế nào? Sau khi mặt trời lặn, không phải giờ ăn, ánh sáng đã tắt hết thì bóng tối sanh ra chăng?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết những suy nghĩ trong tâm của người khác, biết người này cùng tương ưng với pháp thiện, tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết những ý nghĩ trong tâm người ấy, người này diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện rồi, đã có thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt, rồi tất cả sẽ đoạn tuyệt. Như vậy, người này đi đến pháp đoạn tuyệt. Này A Nan, giống như hạt lúa giống không hư, không vỡ, không mục, không nứt, không bị gió làm thương tổn, để an ổn trong vựa lúa. Nếu người cư sĩ kia sửa sang, cày bừa ruộng ngay thẳng, tốt rồi gieo hạt vào, nhưng mưa không phải thời, thì này A Nan, ý thầy thế nào? Có được nhiều hạt lúa không?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, không thể được nhiều hạt.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết ý nghĩ trong tâm của người khác, biết người này tương ưng với pháp thiện, tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết tâm niệm của người ấy diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người đó đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện rồi, nhưng thiện căn có trước đây vẫn không đoạn tuyệt, thì nay sẽ đoạn tuyệt. Như vậy, người này có pháp đoạn tuyệt. Này A Nan, như vậy, là Như Lai nói về Ðại nhân căn tướng. Như vậy là pháp tướng của Như Lai, pháp tướng sanh ra Ngài đều biết rõ.

Lại nữa, này A Nan, Như Lai biết ý niệm của người khác, ta không thấy người này có một chút pháp bạch tịnh dù nhỏ như sợi lông sợi tóc. Người này một mực chỉ toàn là pháp ác bất thiện trói buộc, trở lại bị quả báo phiền nhiệt khổ sở, phải bị sanh, già, bệnh, chết. Như vậy, người này khi thân hoại mạng chung phải sanh trong địa ngục. Này A Nan, giống như hạt lúa giống bị hư, vỡ, mục nát, bị gió làm thương tổn, không được cất giấu cẩn thận. Nếu người cư sĩ làm ruộng ấy không ra sức cày đất, không làm cho đất thuần thục, bằng phẳng rồi gieo hạt giống xuống và mưa không phải thời, thì này A Nan, ý thầy thế nào? Người ấy có được nhiều lúa chăng?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, dạ không.

Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết ý niệm của người khác. Ta không thấy người này có một chút thiện pháp dù nhỏ như sợi lông sợi tóc. Người này một mực chỉ toàn là pháp ác bất thiện trói buộc, nên trở lại bị quả báo nóng bức khổ não, phải chịu sự sanh, già, bệnh, chết. Như vậy, người ấy sau khi thân hoại mạng chung phải sanh trong địa ngục. Như vậy, này A Nan, Như Lai nói về Ðại nhân căn tướng như vậy. Như Lai đối với các pháp hỗ tương sinh ra Ngài đều biết rõ.

Khi ấy tôn giả A Nan chắp tay hướng Phật thưa rằng:

–Bạch Thế Tôn, Ngài đã thuyết giảng về ba hạng người như vậy. Như Lai có thể thuyết giảng về ba hạng người khác nữa được chăng?

Ðức Phật dạy:

–Này A Nan, ta có thể nói. Này A Nan, Như Lai hoặc biết ý niệm của người khác, biết người này cùng tương ưng với pháp thiện, cũng tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết tâm ý của người này, người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện. Người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện rồi, nhưng bất thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt. Từ pháp thiện đó lại sanh pháp thiện (?). Như vậy, người này đối với pháp bất thiện sẽ đoạn tuyệt. Này A Nan, ví như có lửa cháy, ngọn lửa cứ tự nhiên cháy, hoặc có người đẩy cỏ khô lên rồi chất củi khô lên. Này A Nan, ý thầy thế nào? Ngọn lửa càng bốc cháy mạnh lên chăng?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết tâm ý của người khác, người này cùng tương ưng với pháp bất thiện, tương ưng với pháp thiện. Sau đó Như Lai biết tâm ý của người này, người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện. Người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện rồi, nhưng bất thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt. Từ pháp bất thiện đó lại sanh pháp bất thiện. Như vậy, người này đi đến pháp hủy diệt. Này A Nan, như vậy gọi là Như Lai nói về Ðại nhân căn tướng. Cũng vậy, Như Lai biết các pháp hỗ tương sanh ra Ngài đều biết rõ.

Lại nữa, này A Nan, Như Lai biết tâm ý của người khác, người này cùng tương ưng với pháp bất thiện, cũng tương ưng với pháp thiện. Sau đó Như Lai biết tâm ý của người này, người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện. Người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện rồi, nhưng bất thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt, tất cả rồi sẽ đoạn tuyệt. Như vậy người này đi đến pháp ý thanh tịnh rốt ráo. Này A Nan, ví như đốt lửa, ngọn lửa tự nhiên bốc lên, có người đem lửa đang cháy để trên đất khô, hoặc để trên đá. Này A Nan, ý thầy thế nào? Ngọn lửa có bốc cháy mạnh lên chăng?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, không thể bốc cháy mạnh được.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết ý niệm của người khác, người này cùng tương ưng với pháp bất thiện, cũng tương ưng với pháp thiện. Sau đó Như Lai biết tâm niệm của người này, người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện. Người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện rồi, bất thiện căn còn sót lại từ trước vẫn chưa đoạn tuyệt, nhưng rồi tất cả sẽ đoạn tuyệt. Như vậy, người đó đạt được pháp thanh tịnh hoàn toàn. Này A Nan, như vậy là Như Lai đã nói về Ðại nhân căn tướng. Cũng vậy, Như Lai biết các pháp hỗ tương sanh ra Ngài đều biết rõ.

Lại nữa, này A Nan, Như Lai biết tâm ý suy nghĩ của người khác. Ta không thấy người ấy có hắc nghiệp dù nhỏ như sợi lông, sợi tóc. Người ấy hoàn toàn có đầy đủ pháp thiện, hạnh thiện và quả báo thiện, thân kẻ ấy tương ưng với chỗ thiện. Như vậy, người ấy ngay trong đời này chắc chắn chứng Niết bàn. Này A Nan, ví như lửa đã tắt, mát lạnh, không còn nóng nữa, hoặc có người lấy cỏ khô bỏ vào trong ấy, này A Nan, ý thầy thế nào? Nó có thể bốc cháy không?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, không thể được.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết ý niệm của người khác. Ta không thấy người này có hắc nghiệp dù nhỏ như sợi lông, sợi tóc. Người ấy hoàn toàn có đầy đủ pháp thiện, hạnh thiện và quả báo thiện, thân kẻ ấy tương ưng với chỗ thiện. Như vậy, người ấy ngay trong đời này chứng Bát Niết bàn. Này A Nan, như vậy là Như Lai nói về Ðại nhân căn tướng. Cũng vậy, Như Lai đối với các pháp hỗ tương sanh ra Ngài đều biết rõ.

Này A Nan, ba hạng người nói trên kia, hạng thứ nhất đạt được pháp thanh tịnh, hạng thứ hai có pháp hoại diệt, hạng thứ ba khi thân hoại mạng chung chắc chắn đọa vào chỗ ác, sanh trong địa ngục. Ba hạng người ta nói sau đó, hạng người thứ nhất có pháp hủy diệt, hạng thứ hai có pháp thanh tịnh, hạng thứ ba ngay trong đời này chứng đắc Bát Niết bàn.

Này A Nan, ta đã nói về Ðại nhân căn tướng. Như đấng Thế Tôn thương yêu đệ tử, muốn được lợi ích, ta đã nói cho thầy nghe. Nay thầy phải ở chỗ vắng vẻ, ngồi dưới gốc câythiền định, tư duy chớ có phóng dật, đừng để về sau phải hối hận. Ðó là lời giáo huấn của ta. Ðó là lời khuyên bảo của ta.

Ðức Phật thuyết pháp như vậy, các Tỳ kheo sau khi nghe đức Thế Tôn dạy, hoan hỷ phụng hành.

 

PHẬT NÓI KINH A NẬU PHÁT

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27170)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21763)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20424)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24738)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24736)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30970)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23979)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27760)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26505)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21299)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23212)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38118)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19949)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19037)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23143)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23867)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22784)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22905)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29560)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20633)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15845)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18846)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19646)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20148)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19949)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18111)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34161)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16410)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39233)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26052)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20094)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18844)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24050)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29108)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30941)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20998)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26849)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20670)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26248)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23318)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19815)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30023)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20214)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15142)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15826)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23867)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19842)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant