Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Cù Đàm Di Ký Quả

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11500)
Kinh Cù Đàm Di Ký Quả


PHẬT NÓI KINH CÙ ÐÀM DI KÝ QUẢ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0060 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

 Hán dịch: Ðời Lưu Tống, Tam tạng Pháp sư Huệ Giản.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


 

Nghe như vầy một thời Bà Già Bà ở trong vườn Ni câu Lư, thành Ca Duy La Vệ, Thích Cơ Sấu, cùng chúng đại Tỳ kheo thọ tuế (an cư). Bấy giờ Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, xong đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi bạch Thế tôn rằng: “Bạch đức Thế tôn, nữ nhân có thể đắc quả sa môn thứ tư được chăng? Nữ nhơn có thể ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo được chăng?”.

Ðức Thế tôn dạy: “Thôi đi này Cù Ðàm Di, không nên nói như vậy. Nữ nhân không nên ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình xuất gia học đạo được, cạo tóc, khoác áo ca sa, nguyện suốt đời thực hành phạm hạnh thanh tịnh”. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di bị đức Thế tôn ngăn cản, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, nhiễu quanh đức Thế tôn rồi trở về.

Bấy giờ các Tỳ kheo làm y của đức Thế tôn. Ðức Thế tôn không bao lâu thì đến Thích Cơ Sấu để thọ tuế (an cư). Sau khi trải qua ba tháng thọ tuế xong và đã làm y rồi. Sau khi y đã xong, ngài khoác y, ôm bát du hành trong nhơn gian.

Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di nghe các Tỳ kheo đã làm y của đức Thế tôn xong, đức Thế tôn không bao lâu nữa sẽ đến Thích Cơ Sấu để thọ tuế. Sau khi trải qua ba tháng thọ tuế xong, làm y rồi, ngài khoác y, ôm bát du hành nhân gian. Sau khi nghe tin Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di lại đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã đứng qua một bên rồi, bạch đức Thế tôn: “Bạch Thế tôn, có thể nào làm cho nữ nhân đắc quả sa môn thứ tư chăng? Do đó nữ nhân có thể ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, từ bỏ gia đìnhhọc đạo được chăng?”

Ðức Thế tôn lại nói: “Thôi đi này Cù Ðàm Di. Ðừng nói như vậy. Nữ nhân không nên ở trong pháp luật này vui thích xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo, cạo tóc, mặc áo ca sa, nguyện suốt đời tu hành phạm hạnh thanh tịnh”. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã bị đức Thế tôn ngăn cản lần thứ hai, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn nhiễu quanh rồi ra về. Bấy giờ đức Thế tôn ở Thích Cơ Sấu đã thọ tuế an cư sau ba tháng xong, đã làm y rồi, ngài khoác y, ôm bát và đi du hành nhân gian. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di ... nhân gian.

Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã nghe tin như vậy rồi liền cùng các lão nữ nhân đi theo sau đức Thế tôn. Bấy giờ đức Thế tôn thứ lớp du hành đến Na Bà Ðề, ngài dừng chân ở Na Bà Ðề, Kỳ Ni Xá. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân Thế tôn, rồi đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi, bạch Thế tôn: “Bạch Thế tôn, nữ nhân có cách nào để đắc quả sa môn thứ tư chăng? Do đó nữ nhân có thể ở trong pháp luật này tin vui, xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo được chăng?”.

Ðức Thế tôn nói lại lần thứ ba: “Thôi đi này Cù Ðàm Di. Không thể như vậy. Nữ nhân không được ở trong pháp luật này xuất gia, từ bỏ gia đìnhhọc đạo, cạo tóc, mặc áo ca sa, nguyện suốt đời hành phạm hạnh thanh tịnh”. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di bị Thế tôn ngăn cản lần thứ ba, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn nhiễu quanh rồi đi ra.

Lúc ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di chân tay lấm lem, thân thể dính đầy bụi bậm, vô cùng mệt mõi, đứng ngoài cửa buồn rầu khóc lóc. Tôn giả A nan từ xa trông thấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di chân tay lấm lem, thân thể dính đầy bụi bậm, vô cùng mệt mõi, đứng ngoài cửa mà khóc, thấy xong tôn giả hỏi: “Cù Ðàm Di? Vì lý do gì mà tay chân lấm lem, thân thể dính đầy bụi bậm, vô cùng mệt mõi, đứng ngoài cửa buồn rầu khóc lóc như vậy?”. Cù Ðàm Di thưa: “Thưa tôn giả A nan, nữ nhân không được ở trong pháp luật này, không được tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo”. Tôn giả A nan nói: “Này Cù Ðàm Di, hãy đứng dậy, để tôi đi đến chỗ đức Thế tôn và thưa việc này cho”.

Bấy giờ tôn giả A nan đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân Thế tôn xong đứng qua một bên. Tôn giả A nan đứng qua một bên rồi bạch rằng: “Bạch Thế tôn, nữ nhân có thể đắc quả sa môn thứ tư chăng? Do đó nữ nhân có thể ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, bỏ nhà học đạo được chăng?”. Ðức Thế tôn dạy: “Này A nan, thôi đi đừng nói nữa. Nữ nhân không được ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, từ bỏ gia đìnhhọc đạo. Này A nan, nếu nữ nhân được ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo thì phạm hạnh này sẽ không được tồn tại lâu dài. Này A nan, ví như gia đình có nhiều người nữ, ít người nam thì gia đình này có hưng thịnh lên không?”. - Bạch Thế tôn, không thể.

-Cũng vậy, này A nan, nếu cho nữ nhân được xuất gia ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo thì phạm hạnh sẽ không được tồn tại lâu dài. Này A nan, giống như trong ruộng lúa dé, lúa tẻ đang lên phơi phới, nữa chừng thì bị mưa đá làm cho tổn hại. Ðám ruộng tốt ấy nhân vì mưa đá nên bị bại hoại. Cũng vậy này A nan, nếu có nữ nhân ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo thì phạm hạnh này sẽ không được tồn tại lâu dài.

Tôn giả A nan lại bạch: “Bạch Thế tôn, Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã đem lại lợi ích cho Thế tôn. Sau khi thân mẫu Thế tôn mạng chung thì Cù Ðàm Di đã nuôi lớn Thế tôn bằng dòng sữa của bà”.

Ðức Thế tôn dạy: “Ðúng vậy, này A nan, Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã đem lại cho ta nhiều lợi ích. Khi thân mẫu của ta mạng chung thì bà đã dùng sữa của bà để nuôi lớn ta. Nhưng này A nan, ta cũng đã đem lại nhiều lợi ích cho Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di. Nhờ ta mà bà quy y ta (Phật), quy y phápquy y Tỳ kheo tăng, không nghi ngờ đối với Phật pháp, không nghi ngờ đối với chúng tăng, không nghi ngờ đối với khổ, tập, tận, đạo, đầy đủ tín tâm, giới cấm, bác văn, bố thí, đầy đủ trí tuệ, đoạn trừ nghiệp sát, xa lìa nghiệp sát, trừ nghiệp không cho mà lấy, tà dâm, vọng ngôn, cho đến trừ bỏ việc uống rượu, xa lìa việc uống rượu. Này A nan, nếu có người nhờ người khác mà được quy y Phật, quy y phápquy y Tỳ kheo tăng, không nghi ngờ Phật, không nghi ngờ pháp, không nghi ngờ Tỳ kheo tăng, không nghi ngờ đối với khổ, tập, tận, đạo, đầy đủ tín tâm, giới cấm, bác văn, bố thí, đầy đủ trí tuệ, đoạn trừ nghiệp sát, xa lìa nghiệp sát, trừ nghiệp không cho mà lấy, tà dâm, vọng ngôn, cho đến trừ bỏ việc uống rượu, xa lìa việc uống rượu. Này A nan, giả như người này suốt đời cúng dường cho người kia y phục, giường chõng, thuốc thang chữa bệnh lúc đau ốm, mà chẳng lẽ người kia lại không báo ơn sao?

Lại nữa này A nan, nữ nhơn phải phụng hành tám trọng pháp này và không được vi phạm. Nữ nhơn phải suốt đời trì giới này. Này A nan, cũng như người đánh cá giỏi hay đệ tử của y vào trong nước sâu để thả lưới, phải đắp đập trong đó để giữ nước không cho chảy ra ngoài. Cũng vậy này A nan, nữ nhân phải phụng hành tám trọng pháp, không được vi phạm. Nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời. Tám giới đó là những gì?

Này A nan, Tỳ kheo ni phải cầu thọ giới cụ túc nơi Tỳ kheo. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhơn tuyên bố trọng pháp thứ nhất, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni mỗi nữa tháng phải đến thọ lễ tiết (thọ giáo) nơi Tỳ kheo. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ hai, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, nếu nơi vùng không có Tỳ kheo, thì Tỳ kheo ni không được thọ an cư. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ ba, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni sau khi thọ an cư phải đối trước hai bộ chúng thỉnh cầu chỉ rõ về ba sự thọ tuế: thấy, nghe và nghi. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ tư, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, nếu Tỳ kheo không cho phép Tỳ kheo ni thưa hỏi thì Tỳ kheo ni không được thưa hỏi Tỳ kheo về khế kinh, luật hoặc A tỳ đàm. Này A nan, nếu Tỳ kheo cho phép thì Tỳ kheo ni mới được thưa hỏi Tỳ kheo về khế kinh, luật hoặc A tỳ đàm. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ năm, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni không được phép nói về điều trái phạm thấy, nghe và nghi của Tỳ kheo, nhưng Tỳ kheo được quyền nói điều trái phạm về thấy, nghe và nghi của Tỳ kheo ni. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ sáu, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni nếu phạm Tăng già bà thi sa thì phải đối trước hai bộ chúng hành ý hỷ trong vòng mười lăm ngày. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ bảy, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni dù đã thọ giới cụ túc đến một trăm năm, nhưng đối với một vị Tỳ kheo mới thọ giới cụ túc vẫn phải cúi lạy sát chân, phải cung kính, vâng lời. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ tám, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố tám trọng pháp này, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, nếu Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di phụng trì tám trọng pháp ấy thì được ở trong pháp luật này mà học đạo, được thọ giới cụ túc làm Tỳ kheo ni. Khi ấy tôn giả A nan nghe đức Thế tôn dạy, khéo nhận lãnh, tư duy, tụng tập, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, nhiễu quanh rồi đi ra đến chỗ Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di, đến xong nói với Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di như vầy: “Ðược rồi, này Cù Ðàm Di. Nữ nhân đã được phép ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo. Này Cù Ðàm Di, đức Thế tôn nói như vầy: “Nữ nhân phải thực hành tám trọng pháp, không được vi phạm, nữ nhân phải suốt đời giữ giới này. Những gì là tám?

Này Cù Ðàm Di, Tỳ kheo ni phải cầu thọ giới cụ túc nơi Tỳ kheo. Này Cù Ðàm Di, đó là đức Thế tônnữ nhântuyên bố trọng pháp thứ nhất này, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy phụng trì giới này suốt đời. Cho đến này Cù Ðàm Di, Tỳ kheo nithọ cụ túc giới một trăm năm nhưng đối trước Tỳ kheo mới thọ giới cụ túc vẫn phải đảnh lễ sát chân, cung kính lễ bái vâng lời. Này Cù Ðàm Di, đó là đức Thế tônnữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ tám này, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân suốt đời thọ giới này.

Này Cù Ðàm Di, đó là đức Thế tônnữ nhân tuyên bố tám trọng pháp này. Hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân suốt đời thọ giới này. Này Cù Ðàm Di, nếu có thể phụng trì tám trọng pháp này thì nữ nhân sẽ được ở trong pháp luật này học đạo, thọ giới cụ túc làm Tỳ kheo ni.

Khi ấy Cù Ðàm Di thưa: “Ðúng vậy. Này tôn giả A nan, hãy nghe tôi nói một ví dụ, người trí tuệ nghe ví dụ liền hiểu rõ ý nghĩa. Thưa tôn giả A nan, ví như có người nữ Sát lợi, người nữ Bà la môn, người nữ Công sư, người nữ thường dân, tắm gội sạch sẽ, lấy hương xoa thân thể, mặc y phục mới. Hoặc có người nghĩ như vầy: “Ta thương yêu nàng, muốn làm cho nàng được lợi ích, muốn nàng được an ổn, liền đem tràng hoa sen xanh, tràng hoa Chiêm bặc, tràng hoa Mạn bà sưtràng hoa Mạn a đề mâu đa trao tặng cho nàng. Thiếu nữ ấy nhận lãnh cả hai tay, đem cài lên đầu mình”. Cũng vậy, thưa tôn giả A nan, đức Thế tôn vì người nữ mà tuyên bố tám trọng pháp này, tôi nguyện suốt đời nhận lãnh và thọ trì”.

Tôn giả A nan bảo: “Này Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di, hãy ở trong pháp luật này học đạo, thọ giới cụ túc, làm Tỳ kheo ni”. Bấy giờ Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di sau này cùng các chúng Tỳ kheo ni kỳ túc với các trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo ni đồng tu phạm hạnh, đồng đi đến chỗ tôn giả A nan, đến xong cúi đầu đảnh lễ dưới chân tôn giả A nan rồi đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi thưa tôn giả A nan: “Thưa tôn giả A nan, các Tỳ kheo ni này là bậc trưởng lão thượng tôn đều tu hành phạm hạnh. Còn các Tỳ kheo kia nhỏ tuổi, mới học đạo chưa bao lâu, vào trong pháp luật này chưa lâu. Mong rằng các Tỳ kheo này đối với các Tỳ kheo ni là những trưởng lão phải đảnh lễ, vâng lời”.

Khi ấy tôn giả A nan nói: “Thôi đi, này Cù Ðàm Di. Ðể tôi đi đến chỗ đức Thế tôn thưa hỏi việc này”. Cù Ðàm Di thưa: “Kính vâng, thưa tôn giả A nan”.

Lúc bấy giờ tôn giả A nan đi đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ đức Thế tôn và đứng qua một bên, bạch đức Thế tôn rằng: “Bạch Thế tôn, ngày hôm nay Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di cùng các Tỳ kheo ni đều là bậc trưởng lão thượng tôn đồng tu phạm hạnh, đi đến chỗ con, đến xong đảnh lễ dưới chân con rồi đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi nói với con: “Thưa tôn giả A nan, nên biết các Tỳ kheo ni này là bậc trưởng lão thượng tôn đồng tu phạm hạnh, còn các Tỳ kheo kia là những người trẻ tuổi, học đạo chưa bao lâu và ở trong pháp luật này cũng chưa lâu. Vậy hãy bảo các Tỳ kheo này nên đối với các trưởng lão Tỳ kheo ni này xem như bậc trưởng lão mà đảnh lễ, vâng lời”. Ðức Thế tôn nói: “Thôi đi này A nan. Hãy gìn giữ lời nói này. Ngươi chớ có nói lại điều ấy nữa. Này A nan, hãy biết như điều ta biết, một điều cũng không thể bỏ được, huống gì lại nói những lời ấy.

Này A nan, nếu nữ nhân mà không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ ấy sẽ lấy áo trải trên đất mà nói rằng: “Này các Sa môngiới hạnh, ngài có thể đi lên trên này. Thưa Sa môn tinh tấn, ngài đã làm việc khó làm khiến cho chúng tôi mãi mãi được sự lợi ích ý nghĩa”.

Này A nan, nếu nữ nhân mà không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ ấy sẽ đem đầu tóc mình trải trên đất mà nói rằng: “Thưa Sa môn, ngài hãy đi lên trên này. Sa môn trì giới hạnh hết sức khó khăn khiến cho chúng tôi mãi mãi được ý nghĩa lợi ích”.

Này A nan, nếu nữ nhân không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ sẽ đứng bên đường, hai tay bưng đầy thức ăn và nói rằng: “Thưa chư hiền, xin thọ nhận món ăn này, tùy ýthọ dụng để cho chúng tôi mãi mãi được an ổn, ý nghĩa và lợi ích”.

Này A nan, nếu nữ nhân không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ sẽ tin tưởng các Sa môn giới hạnh, lấy tay dìu đỡ vào nhà, đem các vật dụng ra cúng dường và nói rằng: “Tùy ý chư hiền thọ dụng vật dụng này khiến cho chúng con mãi mãi được an ổn, ý nghĩa và lợi ích”.

Này A nan, nếu nữ nhân không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì dù cho mặt trời, mặt trăng này có đại oai thần, có đại năng lực nhưng đối trước sức quang minh của vị Sa môn giữ giới kia vẫn không thể sánh bằng, huống nữa là đối với các hàng ngoại đạohọc thuyết khác, tệ ác thì làm sao sánh kịp.

Này A nan, nếu nữ nhân mà không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì chánh pháp sẽ tồn tại đến ngàn năm. Thế nhưng bây giờ đã mất hết 500 năm, chỉ còn lại có 500 năm.

Này A nan, có năm việc nữ nhân không thể làm được: nữ nhân không thể thành Như lai, bậc Vô sở trước đẳng chánh giác, hoặc Chuyển luân vương, không thể làm Thiên đế thích, không thể làm Ma vương hay Ðại phạm thiên. Nhưng có năm việc mà nam nhân có thể làm được. Ðó là nam nhân có thể thành Như lai, bậc Vô sở trước đẳng chánh giác, hoặc Chuyển luân vương, Thiên đế thích, Ma vương hay Ðại phạm thiên, điều này chắc chắn có thật.

Ðức Phật thuyết như vậy, tôn giả A nan nghe đức Thế tôn dạy xong, vui mừng hoan hỷ

PHẬT NÓI KINH CÙ ÐÀM DI KÝ QUẢ 

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23956)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41216)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19691)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23980)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21745)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23300)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27503)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26569)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29316)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33188)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20189)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25767)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20911)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31316)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38568)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21435)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44251)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29822)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42191)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22138)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45747)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32107)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23952)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24385)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29268)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33913)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27679)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32129)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21061)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28848)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21576)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28063)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22073)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21431)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19496)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19470)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19834)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19240)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29174)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20615)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28284)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23650)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33180)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31841)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21373)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39623)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21545)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19373)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26390)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24817)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21755)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22383)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29127)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22553)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23515)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21235)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35316)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24544)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31340)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant