Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Cù Đàm Di Ký Quả

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11499)
Kinh Cù Đàm Di Ký Quả


PHẬT NÓI KINH CÙ ÐÀM DI KÝ QUẢ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0060 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

 Hán dịch: Ðời Lưu Tống, Tam tạng Pháp sư Huệ Giản.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


 

Nghe như vầy một thời Bà Già Bà ở trong vườn Ni câu Lư, thành Ca Duy La Vệ, Thích Cơ Sấu, cùng chúng đại Tỳ kheo thọ tuế (an cư). Bấy giờ Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, xong đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi bạch Thế tôn rằng: “Bạch đức Thế tôn, nữ nhân có thể đắc quả sa môn thứ tư được chăng? Nữ nhơn có thể ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo được chăng?”.

Ðức Thế tôn dạy: “Thôi đi này Cù Ðàm Di, không nên nói như vậy. Nữ nhân không nên ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình xuất gia học đạo được, cạo tóc, khoác áo ca sa, nguyện suốt đời thực hành phạm hạnh thanh tịnh”. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di bị đức Thế tôn ngăn cản, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, nhiễu quanh đức Thế tôn rồi trở về.

Bấy giờ các Tỳ kheo làm y của đức Thế tôn. Ðức Thế tôn không bao lâu thì đến Thích Cơ Sấu để thọ tuế (an cư). Sau khi trải qua ba tháng thọ tuế xong và đã làm y rồi. Sau khi y đã xong, ngài khoác y, ôm bát du hành trong nhơn gian.

Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di nghe các Tỳ kheo đã làm y của đức Thế tôn xong, đức Thế tôn không bao lâu nữa sẽ đến Thích Cơ Sấu để thọ tuế. Sau khi trải qua ba tháng thọ tuế xong, làm y rồi, ngài khoác y, ôm bát du hành nhân gian. Sau khi nghe tin Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di lại đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã đứng qua một bên rồi, bạch đức Thế tôn: “Bạch Thế tôn, có thể nào làm cho nữ nhân đắc quả sa môn thứ tư chăng? Do đó nữ nhân có thể ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, từ bỏ gia đìnhhọc đạo được chăng?”

Ðức Thế tôn lại nói: “Thôi đi này Cù Ðàm Di. Ðừng nói như vậy. Nữ nhân không nên ở trong pháp luật này vui thích xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo, cạo tóc, mặc áo ca sa, nguyện suốt đời tu hành phạm hạnh thanh tịnh”. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã bị đức Thế tôn ngăn cản lần thứ hai, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn nhiễu quanh rồi ra về. Bấy giờ đức Thế tôn ở Thích Cơ Sấu đã thọ tuế an cư sau ba tháng xong, đã làm y rồi, ngài khoác y, ôm bát và đi du hành nhân gian. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di ... nhân gian.

Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã nghe tin như vậy rồi liền cùng các lão nữ nhân đi theo sau đức Thế tôn. Bấy giờ đức Thế tôn thứ lớp du hành đến Na Bà Ðề, ngài dừng chân ở Na Bà Ðề, Kỳ Ni Xá. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân Thế tôn, rồi đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi, bạch Thế tôn: “Bạch Thế tôn, nữ nhân có cách nào để đắc quả sa môn thứ tư chăng? Do đó nữ nhân có thể ở trong pháp luật này tin vui, xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo được chăng?”.

Ðức Thế tôn nói lại lần thứ ba: “Thôi đi này Cù Ðàm Di. Không thể như vậy. Nữ nhân không được ở trong pháp luật này xuất gia, từ bỏ gia đìnhhọc đạo, cạo tóc, mặc áo ca sa, nguyện suốt đời hành phạm hạnh thanh tịnh”. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di bị Thế tôn ngăn cản lần thứ ba, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn nhiễu quanh rồi đi ra.

Lúc ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di chân tay lấm lem, thân thể dính đầy bụi bậm, vô cùng mệt mõi, đứng ngoài cửa buồn rầu khóc lóc. Tôn giả A nan từ xa trông thấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di chân tay lấm lem, thân thể dính đầy bụi bậm, vô cùng mệt mõi, đứng ngoài cửa mà khóc, thấy xong tôn giả hỏi: “Cù Ðàm Di? Vì lý do gì mà tay chân lấm lem, thân thể dính đầy bụi bậm, vô cùng mệt mõi, đứng ngoài cửa buồn rầu khóc lóc như vậy?”. Cù Ðàm Di thưa: “Thưa tôn giả A nan, nữ nhân không được ở trong pháp luật này, không được tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo”. Tôn giả A nan nói: “Này Cù Ðàm Di, hãy đứng dậy, để tôi đi đến chỗ đức Thế tôn và thưa việc này cho”.

Bấy giờ tôn giả A nan đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân Thế tôn xong đứng qua một bên. Tôn giả A nan đứng qua một bên rồi bạch rằng: “Bạch Thế tôn, nữ nhân có thể đắc quả sa môn thứ tư chăng? Do đó nữ nhân có thể ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, bỏ nhà học đạo được chăng?”. Ðức Thế tôn dạy: “Này A nan, thôi đi đừng nói nữa. Nữ nhân không được ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, từ bỏ gia đìnhhọc đạo. Này A nan, nếu nữ nhân được ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo thì phạm hạnh này sẽ không được tồn tại lâu dài. Này A nan, ví như gia đình có nhiều người nữ, ít người nam thì gia đình này có hưng thịnh lên không?”. - Bạch Thế tôn, không thể.

-Cũng vậy, này A nan, nếu cho nữ nhân được xuất gia ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo thì phạm hạnh sẽ không được tồn tại lâu dài. Này A nan, giống như trong ruộng lúa dé, lúa tẻ đang lên phơi phới, nữa chừng thì bị mưa đá làm cho tổn hại. Ðám ruộng tốt ấy nhân vì mưa đá nên bị bại hoại. Cũng vậy này A nan, nếu có nữ nhân ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo thì phạm hạnh này sẽ không được tồn tại lâu dài.

Tôn giả A nan lại bạch: “Bạch Thế tôn, Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã đem lại lợi ích cho Thế tôn. Sau khi thân mẫu Thế tôn mạng chung thì Cù Ðàm Di đã nuôi lớn Thế tôn bằng dòng sữa của bà”.

Ðức Thế tôn dạy: “Ðúng vậy, này A nan, Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã đem lại cho ta nhiều lợi ích. Khi thân mẫu của ta mạng chung thì bà đã dùng sữa của bà để nuôi lớn ta. Nhưng này A nan, ta cũng đã đem lại nhiều lợi ích cho Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di. Nhờ ta mà bà quy y ta (Phật), quy y phápquy y Tỳ kheo tăng, không nghi ngờ đối với Phật pháp, không nghi ngờ đối với chúng tăng, không nghi ngờ đối với khổ, tập, tận, đạo, đầy đủ tín tâm, giới cấm, bác văn, bố thí, đầy đủ trí tuệ, đoạn trừ nghiệp sát, xa lìa nghiệp sát, trừ nghiệp không cho mà lấy, tà dâm, vọng ngôn, cho đến trừ bỏ việc uống rượu, xa lìa việc uống rượu. Này A nan, nếu có người nhờ người khác mà được quy y Phật, quy y phápquy y Tỳ kheo tăng, không nghi ngờ Phật, không nghi ngờ pháp, không nghi ngờ Tỳ kheo tăng, không nghi ngờ đối với khổ, tập, tận, đạo, đầy đủ tín tâm, giới cấm, bác văn, bố thí, đầy đủ trí tuệ, đoạn trừ nghiệp sát, xa lìa nghiệp sát, trừ nghiệp không cho mà lấy, tà dâm, vọng ngôn, cho đến trừ bỏ việc uống rượu, xa lìa việc uống rượu. Này A nan, giả như người này suốt đời cúng dường cho người kia y phục, giường chõng, thuốc thang chữa bệnh lúc đau ốm, mà chẳng lẽ người kia lại không báo ơn sao?

Lại nữa này A nan, nữ nhơn phải phụng hành tám trọng pháp này và không được vi phạm. Nữ nhơn phải suốt đời trì giới này. Này A nan, cũng như người đánh cá giỏi hay đệ tử của y vào trong nước sâu để thả lưới, phải đắp đập trong đó để giữ nước không cho chảy ra ngoài. Cũng vậy này A nan, nữ nhân phải phụng hành tám trọng pháp, không được vi phạm. Nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời. Tám giới đó là những gì?

Này A nan, Tỳ kheo ni phải cầu thọ giới cụ túc nơi Tỳ kheo. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhơn tuyên bố trọng pháp thứ nhất, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni mỗi nữa tháng phải đến thọ lễ tiết (thọ giáo) nơi Tỳ kheo. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ hai, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, nếu nơi vùng không có Tỳ kheo, thì Tỳ kheo ni không được thọ an cư. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ ba, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni sau khi thọ an cư phải đối trước hai bộ chúng thỉnh cầu chỉ rõ về ba sự thọ tuế: thấy, nghe và nghi. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ tư, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, nếu Tỳ kheo không cho phép Tỳ kheo ni thưa hỏi thì Tỳ kheo ni không được thưa hỏi Tỳ kheo về khế kinh, luật hoặc A tỳ đàm. Này A nan, nếu Tỳ kheo cho phép thì Tỳ kheo ni mới được thưa hỏi Tỳ kheo về khế kinh, luật hoặc A tỳ đàm. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ năm, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni không được phép nói về điều trái phạm thấy, nghe và nghi của Tỳ kheo, nhưng Tỳ kheo được quyền nói điều trái phạm về thấy, nghe và nghi của Tỳ kheo ni. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ sáu, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni nếu phạm Tăng già bà thi sa thì phải đối trước hai bộ chúng hành ý hỷ trong vòng mười lăm ngày. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ bảy, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni dù đã thọ giới cụ túc đến một trăm năm, nhưng đối với một vị Tỳ kheo mới thọ giới cụ túc vẫn phải cúi lạy sát chân, phải cung kính, vâng lời. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ tám, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố tám trọng pháp này, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, nếu Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di phụng trì tám trọng pháp ấy thì được ở trong pháp luật này mà học đạo, được thọ giới cụ túc làm Tỳ kheo ni. Khi ấy tôn giả A nan nghe đức Thế tôn dạy, khéo nhận lãnh, tư duy, tụng tập, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, nhiễu quanh rồi đi ra đến chỗ Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di, đến xong nói với Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di như vầy: “Ðược rồi, này Cù Ðàm Di. Nữ nhân đã được phép ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo. Này Cù Ðàm Di, đức Thế tôn nói như vầy: “Nữ nhân phải thực hành tám trọng pháp, không được vi phạm, nữ nhân phải suốt đời giữ giới này. Những gì là tám?

Này Cù Ðàm Di, Tỳ kheo ni phải cầu thọ giới cụ túc nơi Tỳ kheo. Này Cù Ðàm Di, đó là đức Thế tônnữ nhântuyên bố trọng pháp thứ nhất này, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy phụng trì giới này suốt đời. Cho đến này Cù Ðàm Di, Tỳ kheo nithọ cụ túc giới một trăm năm nhưng đối trước Tỳ kheo mới thọ giới cụ túc vẫn phải đảnh lễ sát chân, cung kính lễ bái vâng lời. Này Cù Ðàm Di, đó là đức Thế tônnữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ tám này, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân suốt đời thọ giới này.

Này Cù Ðàm Di, đó là đức Thế tônnữ nhân tuyên bố tám trọng pháp này. Hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân suốt đời thọ giới này. Này Cù Ðàm Di, nếu có thể phụng trì tám trọng pháp này thì nữ nhân sẽ được ở trong pháp luật này học đạo, thọ giới cụ túc làm Tỳ kheo ni.

Khi ấy Cù Ðàm Di thưa: “Ðúng vậy. Này tôn giả A nan, hãy nghe tôi nói một ví dụ, người trí tuệ nghe ví dụ liền hiểu rõ ý nghĩa. Thưa tôn giả A nan, ví như có người nữ Sát lợi, người nữ Bà la môn, người nữ Công sư, người nữ thường dân, tắm gội sạch sẽ, lấy hương xoa thân thể, mặc y phục mới. Hoặc có người nghĩ như vầy: “Ta thương yêu nàng, muốn làm cho nàng được lợi ích, muốn nàng được an ổn, liền đem tràng hoa sen xanh, tràng hoa Chiêm bặc, tràng hoa Mạn bà sưtràng hoa Mạn a đề mâu đa trao tặng cho nàng. Thiếu nữ ấy nhận lãnh cả hai tay, đem cài lên đầu mình”. Cũng vậy, thưa tôn giả A nan, đức Thế tôn vì người nữ mà tuyên bố tám trọng pháp này, tôi nguyện suốt đời nhận lãnh và thọ trì”.

Tôn giả A nan bảo: “Này Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di, hãy ở trong pháp luật này học đạo, thọ giới cụ túc, làm Tỳ kheo ni”. Bấy giờ Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di sau này cùng các chúng Tỳ kheo ni kỳ túc với các trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo ni đồng tu phạm hạnh, đồng đi đến chỗ tôn giả A nan, đến xong cúi đầu đảnh lễ dưới chân tôn giả A nan rồi đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi thưa tôn giả A nan: “Thưa tôn giả A nan, các Tỳ kheo ni này là bậc trưởng lão thượng tôn đều tu hành phạm hạnh. Còn các Tỳ kheo kia nhỏ tuổi, mới học đạo chưa bao lâu, vào trong pháp luật này chưa lâu. Mong rằng các Tỳ kheo này đối với các Tỳ kheo ni là những trưởng lão phải đảnh lễ, vâng lời”.

Khi ấy tôn giả A nan nói: “Thôi đi, này Cù Ðàm Di. Ðể tôi đi đến chỗ đức Thế tôn thưa hỏi việc này”. Cù Ðàm Di thưa: “Kính vâng, thưa tôn giả A nan”.

Lúc bấy giờ tôn giả A nan đi đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ đức Thế tôn và đứng qua một bên, bạch đức Thế tôn rằng: “Bạch Thế tôn, ngày hôm nay Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di cùng các Tỳ kheo ni đều là bậc trưởng lão thượng tôn đồng tu phạm hạnh, đi đến chỗ con, đến xong đảnh lễ dưới chân con rồi đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi nói với con: “Thưa tôn giả A nan, nên biết các Tỳ kheo ni này là bậc trưởng lão thượng tôn đồng tu phạm hạnh, còn các Tỳ kheo kia là những người trẻ tuổi, học đạo chưa bao lâu và ở trong pháp luật này cũng chưa lâu. Vậy hãy bảo các Tỳ kheo này nên đối với các trưởng lão Tỳ kheo ni này xem như bậc trưởng lão mà đảnh lễ, vâng lời”. Ðức Thế tôn nói: “Thôi đi này A nan. Hãy gìn giữ lời nói này. Ngươi chớ có nói lại điều ấy nữa. Này A nan, hãy biết như điều ta biết, một điều cũng không thể bỏ được, huống gì lại nói những lời ấy.

Này A nan, nếu nữ nhân mà không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ ấy sẽ lấy áo trải trên đất mà nói rằng: “Này các Sa môngiới hạnh, ngài có thể đi lên trên này. Thưa Sa môn tinh tấn, ngài đã làm việc khó làm khiến cho chúng tôi mãi mãi được sự lợi ích ý nghĩa”.

Này A nan, nếu nữ nhân mà không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ ấy sẽ đem đầu tóc mình trải trên đất mà nói rằng: “Thưa Sa môn, ngài hãy đi lên trên này. Sa môn trì giới hạnh hết sức khó khăn khiến cho chúng tôi mãi mãi được ý nghĩa lợi ích”.

Này A nan, nếu nữ nhân không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ sẽ đứng bên đường, hai tay bưng đầy thức ăn và nói rằng: “Thưa chư hiền, xin thọ nhận món ăn này, tùy ýthọ dụng để cho chúng tôi mãi mãi được an ổn, ý nghĩa và lợi ích”.

Này A nan, nếu nữ nhân không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ sẽ tin tưởng các Sa môn giới hạnh, lấy tay dìu đỡ vào nhà, đem các vật dụng ra cúng dường và nói rằng: “Tùy ý chư hiền thọ dụng vật dụng này khiến cho chúng con mãi mãi được an ổn, ý nghĩa và lợi ích”.

Này A nan, nếu nữ nhân không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì dù cho mặt trời, mặt trăng này có đại oai thần, có đại năng lực nhưng đối trước sức quang minh của vị Sa môn giữ giới kia vẫn không thể sánh bằng, huống nữa là đối với các hàng ngoại đạohọc thuyết khác, tệ ác thì làm sao sánh kịp.

Này A nan, nếu nữ nhân mà không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì chánh pháp sẽ tồn tại đến ngàn năm. Thế nhưng bây giờ đã mất hết 500 năm, chỉ còn lại có 500 năm.

Này A nan, có năm việc nữ nhân không thể làm được: nữ nhân không thể thành Như lai, bậc Vô sở trước đẳng chánh giác, hoặc Chuyển luân vương, không thể làm Thiên đế thích, không thể làm Ma vương hay Ðại phạm thiên. Nhưng có năm việc mà nam nhân có thể làm được. Ðó là nam nhân có thể thành Như lai, bậc Vô sở trước đẳng chánh giác, hoặc Chuyển luân vương, Thiên đế thích, Ma vương hay Ðại phạm thiên, điều này chắc chắn có thật.

Ðức Phật thuyết như vậy, tôn giả A nan nghe đức Thế tôn dạy xong, vui mừng hoan hỷ

PHẬT NÓI KINH CÙ ÐÀM DI KÝ QUẢ 

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27175)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21766)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22229)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20053)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21948)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24746)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18987)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24749)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30973)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23984)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27763)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26510)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21310)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23222)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38126)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18437)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19966)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19042)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23148)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23876)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22790)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22907)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29568)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20636)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18709)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15847)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18855)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19666)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20151)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19952)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18117)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22929)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34166)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16418)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16917)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39243)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26064)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20097)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18849)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24057)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29129)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22900)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30950)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21007)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20677)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26265)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23322)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19817)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24673)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30032)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20220)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20402)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23879)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19849)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant