Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phạm Ma Dụ

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13914)
Kinh Phạm Ma Dụ


PHẬT NÓI KINH PHẠM MA DỤ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0076 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Ngô, nước Nguyệt Chi, Ưu bà tắc Chi Khiêm.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


Nghe như vầy:

Một thời đức Phật cùng với năm trăm vị Sa môn du hành ở tại nước Tùy Ðề. Bấy giờ có Thệ Tâm (Phạm chí) tên là Phạm Ma Dụ, người nước Di Li (Di Tát La), là bậc kỳ túc, đã một trăm hai mươi tuổi, rộng thông các kinh, tinh tú, đồ thơ, bậc thầy dự biết mọi việc. Phạm Ma Dụ nghe đồn đức Phật là con của nhà vua, sanh trong dòng họ Thích, bỏ sự tôn vinh của nước, làm Sa môn, đã đắc đạo, thanh tịnh chí tôn, cùng với năm trăm Sa môn ở nước Tùy Ðề khai hóa chúng sanh. Phạm Ma Dụ hết sức tán thán rằng:

-Sa môn Cù Ðàm là bậc Thánh cao vòi vọi, là Như Lai, Ứng nghi, chánh chơn, giác đạo, thần thông, là bậc trượng phu, tôn hùng, Pháp ngự, chúng thánh, thầy của trời và người. Vị ấy đã trừ hết tâm ô uế, đã hết các điều ác, được tự giác, không điều gì mà Ngài không biết. Vị ấy ở giữa Sa môn, Thệ Tâm, Thích, Phạm, Long, Qủy vì họ thuyết pháp, phần đầu, phần giữa và phần cuối đều thanh tịnh, huyền diệu, trát tuyệt, các Thánh đều nghe danh.

Phạm Ma Dụ giảng rộng cho môn đồ một cách rõ ràng rằng: Ngài là bậc vô thượng, chánh giác, đúng là vua của các Thánh, chúng ta nên đảnh lễ và mong được giáo hóa.

Ðệ tử của Thệ Tâm là bậc Á thánh, tên là Ma Nạp, cũng rộng hiểu kinh điển, thông minh như thầy, có thể xem đủ các tướng bí mật để biết thân Phật có ba mươi hai tướng đặc thù, là bậc chí tôn vô song hay không? Hãy dùng tâm quán chiếu. Vị thầy bảo Ma Nạp:

-Ta nghe Cù Ðàm là bậc thần thánh vô thượng, chư thiên cùng tôn thờ, nói một mình, bước một mình, bước một mình, bậc hùng trong các Thánh. Vậy ngươi hãy đến xem thử oai nghi biểu lộ của Ngài có đúng là bậc mô phạm cho mọi người mà người ta đã tán thán chăng? Nếu ngươi nhận thấy quả đúng như vậy, ta sẽ đến cúi lạy, tôn thờ.

Ma Nạp hỏi rằng:

–Con nên lấy gì để quán sát?

Thầy đáp:

–Trong kinh há lại không nói sao? Rằng ở đời sau có một vị vua tên là Bạch Tịnh, hoàng hậu tên là Thanh Diệu, đầy đủ thông minh đạo đức, họ sanh ra người con Thánh, là vị trời giữa trời, độc tôn trong thiên hạ, thân thể cao một trượng sáu, có ba mươi hai tướng tốt. Nếu làm vua sẽ là vị phi hành Hoàng Ðế (Chuyển Luân Thánh Vương), nếu xuất gia học đạo làm Sa môn, chắc chắn sẽ thành Phật.

Ma Nạp vâng lời, đảnh lễ dưới chân thầy, đến nước Tuy Ðề, liền đến chỗ đức Phật vái chào khiêm cung lui qua một bên ngồi xuống, lắng lòng quan sát kỹ tướng tốt trên thân của đức Phật, nhưng không thấy hai tướng:

1. Tướng lưỡi rộng dài;

2. Tướng Âm mã tàng; trong ý nghi ngờ.

Ðức Phật biết trong tâm của Ma Nạp có điều nghi ngờ, Ngài liền dùng thần túc hiện tướng Âm mã tàng và hiện tướng le lưỡi rộng dài che luôn cả mặt, liếm tới mép tai bên trái, bên phải, rồi Ngài thu lưỡi vào miệng trở lại. Ngài phóng ra năm sắc hào quang bay quanh thân Ngài ba vòng rồi biến mất nơi đảnh đầu.

Lúc ấy trong tâm của Ma Nạp rung động, vừa mừng vừa sợ, sung sướng tán thán:

–Sa môn Cù Ðàm đích thực là đức Phật, Ngài có hảo tướng quang minh đầy đủ, thật là hi hữu trong thế gian, thật là đáng để gọi Ngài là Như Lai, Ứng cúng, bậc Chánh giác. Ta nên kính trọng theo Ngài để học oai nghi, để hóa giải sự ngu hoặc và thưa lại với thầy ta.

Ma Nạp liền tìm đến trong chỗ đức Thế Tôn thiền định, chỗ Ngài giáo hóa cùng khắp để cứu vớt chúng sanh. Ma Nạp hoặc nghỉ hoặc đi đều theo tăng chúng, chưa bao giờmột mình. Sáu tháng trôi qua, Ma Nạp theo Phật như bóng theo hình, đã xem đủ cái đức thần hóa vòi vọi của đức Phật, liền cúi lạy dưới chân đức Phật, cáo từ trở về bổn xứ. Khi đến chỗ thầy mình, Ma Nạp cúi lạy như xưa, rồi ngồi xuống tòa.

Thầy hỏi:

–Thầy bảo con đi quán sát oai nghi của Thiên tôn Cù Ðàm về tướng tốt, thần hóa có đúng như mọi người xưng dương? Không ngoa chăng? Hay là đúng như vậy? Ðể ta đến đảnh lễ dưới chân Ngài sát dưới mặt đất để tỏ lòng cung kính.

Ma Nạp thưa rằng:

–Ðức Phật có tướng tốt, thần đức hơn cả trời, vòi vọi khó xưng tán được. Dù cho Ðế Thích hay Phạm Thiên cũng không thể so lường được. Các Thánh cũng không thể trù lượng được, các hiền xưng tán dù đến ức năm cũng không được một phần của Ngài, huống chi là trí huệ như lửa đom đóm của con mà xưng tán hết được. Con chỉ nói một cách tóm lược về ba mươi hai tướng tuyệt thế của đức Phật mà thôi. Ðó là:

1. Sa môn Cù Ðàm có tướng lòng bàn chân bằng phẳng.

2. Tướng lòng bàn tay và lòng bàn chân của Ngài có hình bánh xe, bánh xe có một ngàn căm.

3. Tướng xương của Ngài đóng kín lại như móc câu.

4. Tướng ngón tay, ngón chân dài.

5. Tướng gót chân đầy.

6. Tướng tay chân mềm mại, lòng bàn tay có thể nắm ngược ra ngoài.

7. Tướng bàn tay, bàn chân của Ngài đều có màn lưới.

8. Ðùi của Ngài như tướng đùi hươu chúa.

9. Có tướng Mã âm tàng.

10. Tướng sắc thân Ngài có màu vàng tía, sáng láng rực rỡ.

11. Tướng thân của Ngài giống như Kim cương, tuyệt đối không có chút bẩn.

12. Tướng da thịt mềm mại, bụi nước không thể dính vào thân được.

13. Tướng mỗi lỗ chân lông đều mọc một sợi lông.

14. Tướng lông có màu xanh biếc, xoắn theo phía hữu.

15. Tướng thân vuông vức.

16. Tướng phần trên thân như thân sư tử.

17. Tướng thân không khòm, thân như thân của Phạm Thiên.

18. Tướng hai vai liên tiếp qua cổ đầy đặn.

19. Tướng khi đứng thẳng, hai tay sờ tới gối.

20. Tướng cằm như cằm sư tử.

21. Tướng có bốn mươi cái răng.

22. Tướng răng vuông vức.

23. Tướng răng đều đặn.

24. Tướng răng trắng trong, không ai sánh bằng.

25. Tướng lưỡi rộng dài.

26. Tướng răng có mùi vị bậc nhất.

27. Tướng tiếng nói như tiếng trời Phạm Thiên.

28. Tướng bảy chỗ trên thân (hai bàn tay, hai bàn chân, hai vai và cổ) đầy đặn.

29. Tướng trong mắt màu trắng có sắc xanh biếc.

30. Khóe mắt của Ngài trên và dưới đầy đặn như trâu chúa.

31. Tướng có một sợi lông trắng trong giữa hai hàng lông mày.

32. Tướng trên đảnh có nhục kế, rực rỡ hơn cả mặt trời, mặt trăng.

Sa môn Cù Ðàm có đầy đủ ba mươi hai tướng cao nhã, không thiếu tướng nào. Hình dáng thần diệu tuyệt vời, rất đặc thù, rất quý giá, vốn hy hữu từ xưa. Con xem lúc Cù Ðàm bước đi liền bước chân hữu trước, dài, ngắn, chậm hay mau đều hợp với oai nghi. Lúc đi, hai gót chân không chạm vào nhau. Lúc đi thân ngay thẳng, hai vai không lay động. Nếu Ngài nhìn lui, không dùng sức, đứng ngay thẳng, bỗng nhiên quay ra sau mà thân không quay, đầu không cúi xuống, không ngước lên, tay chân ngay thẳng, lúc đi ngay thẳng, chưa từng liếc ngó, oai nghi lúc bước đi là như vậy. Lúc Sa môn Cù Ðàm đi, chư thiên dâng bảo cái, rải hoa tuyết, trời, rồng, chim bay không dám bay lên trên. Chúng sanh trong ba cõi đều không thấy đảnh tướng của Ngài. Chư thiên trỗi nhạc đi theo để đưa Ngài. Long thần, Ðịa kỳ sửa đường ngay thẳng, không có cao thấp. Khi chân Ngài bước đi có in tướng bánh xe trên mặt đất, hào quang chiếu huy hoàng rực rỡ đến bảy ngày mới hết, cây rừng cúi đầu kính ngưỡng như người quỳ lạy đảnh lễ. Khi hành động phù hợp với sự cầu thỉnh. Xà nhà cao hay thấp Ngài vẫn để thân ngay thẳng mà vào, xà nhà không nâng cao thêm mà Cù Ðàm vẫn không cúi thấp xuống. Lúc ngồi, Ngài ngồi giữa giường, không thụt tới trước cũng không lui về sau. Ngài chéo tay mà ngồi, không hề chỉ trỏ, không có chống cằm. Lúc xuống giường không cần cong mình mà bỗng nhiên bước tới đất. Dù Thiên ma có mang độc dược tới hại Ngài, nhưng tâm Ngài vẫn không sợ hãi, mặt Ngài phát ra hào quang mà độc tự giải. Lòng từ thương xót chúng sanh mà độc nào chẳng tiêu. Ngài dùng bát lấy nước thì bát không nghiêng một bên, không vất vao lên, nước cũng không nhiều không ít. Lúc rửa bát, nước và bát đều vắng lặng, không có một tiếng chao động nhỏ. Ngài chưa bao giờ để bình bát dưới đất. Trong lúc rửa tay, tay và bát đều sạch. Lúc đổ nước trong bát ra hoặc cao, thấp xa gần đều thích hợp với chỗ muốn đổ. Lấy bát để nhận cơm, cơm không làm dơ bát. Khi đưa cơm vào miệng, nhai cơm, ba lần đưa cơm quanh miệng mới nuốt. Hạt cơm lúc Ngài ăn đều nát, không dính ở kẽ răng, thức ăn có bao nhiêu mùi vị Ngài đều phân biệt biết hết. Ngài ăn vừa đủ để nuôi thân, không phải để vui sướng. Cù Ðàm thọ thực là vì tám nhân duyên:

1. Không phải để vui chơi.

2. Không có tâm tà hạnh.

3. Chí muốn vô dục.

4. Không có hành động xảo ngụy.

5. Viễn ly ba cõi phiền não.

6. Khiến chí đạo vắng lặng, nương vào phước, được độ thoát, đoạn trừ sự đau nhức cũ của mười hai biển (mười hai nhân duyên).

7. Diệt trừ tội cũ để được đạo lực.

8. Giữ bất tưởng định không tịch.

Rồi Ngài rửa bát như trước. Ðối với pháp y, bình bát, ý Ngài không ghét cũng không đắm trước. Ngài vì người bố thí chú nguyện, thuyết kinh xong thì trở về tinh xá, không nói với đệ tửăn ngon, ăn dở. Ngài ăn xong đồ ăn tự tiêu hóa, không có sự dơ bẩn của việc đại tiểu tiện. Khi vào phòng, tịnh mặc, tư duy sâu xa các định, trong thời gian ngắn liền xuất định, chưa từng sai giờ. Ngày đêm không ngủ nhưng không bao giờ thiếu ngủ. Rộng phân biệt minh pháp để khuyên dạy, sách tấn đệ tử, làm cho họ được nhập đạo. Không dùng tài sắc là hạnh ô uế đạo để dạy cho các đệ tử. Ngài thuyết pháp cao xa mà không thể thấy nghe được ở các sách tiên thánh, làm cho mọi người hứng khởi, thanh tịnh hành đạo. Lúc kinh hành, Ngài không quay đầu liếc ngó. Nếu lúc đắp y, tư thế y không lơi khỏi thân, bụi không dính vào thân. Pháp phục nơi thân Ngài cao thấp, lúc gấp lúc hoãn đều đẹp. Khi vào vườn rửa chân, không cần chà rửa mà chân tự sạch. Thân sắc Ngài rạng ngời giống như trời vàng.

Ý Ngài không đắm trước ái dục, tâm như hư không. Lúc Ngài ngồi thiền định, hoát nhiên vô tưởng. Ba độc, bốn thống, năm ấm, sáu nhập, bảy kết, tám tào Ngài đều dùng trí tuệ vô thượng để tiêu diệt tất cả, Ngài dùng định: không, bất định, vô tướng, đoạn trừ chín thần xứ. Dùng thập thiện để tiêu trừ thập ác. Ngài nói mười hai bộ kinh là để bứng gốc cội rễ của mười hai nhân duyên, sáu mươi hai tà kiến, các ghẻ lở, phiền não tệ hại, làm cho tâm niệm uế trược được vắng lặng. Ngài dùng Tứ đẳng Ðại thừa để tự độ thân cao quý của Ngài và cứu vớt chúng sanh bằng cách thuyết những cảnh giới mô phạm. Ðệ tử chưa thưa hỏi mà Ngài đã tự cười, trong miệng ngài phóng ra luồng ánh sáng bao quanh Ngài ba vòng rồi từ từ biến mất.

Tôn giả A Nan sửa lại y phục, cúi lạy thưa hỏi:

–Thuyết pháp có mấy loại tiếng?

Ðức Phật liền đáp:

–Tiếng Ðại thuyết pháp có tám loại: tiếng rất hay, tiếng dễ hiểu, tiếng nhu nhuyến, tiếng điều hòa, tiếng trí tuệ tôn kính, tiếng không lầm lẫn, tiếng thâm sâu vi diệu, tiếng không yếu ớt. Lời nói không rơi rớt, thiếu sót, không có lỗi lầm. Mỗi lần Ðại thuyết kinh, hai mươi bốn cõi trời Phạm thiên, Ðế Thích, Tứ thiên vương, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, trong đó có chư thần, Ðế vương, nhân dân, rồng quỷ, chẳng ai mà chẳng khâm phục, cúi lạy mà ra về, rồi phụng trì chấp hành vậy. Rồi đức Phật đi vào phòng ngồi im lặng. Chưa từng thấy đức Vô thượng Thiên khinh mạn đệ tử và các chúng sanh.

Con theo đức Cù Ðàm trong sáu tháng, như bóng theo hình, quan sát đầy đủ lúc Ngài đi, lúc ở, lúc kinh hành, lúc vào thất, tắm rửa súc miệng, ăn uống chú nguyện, thuyết kinh, lúc khuyến khích đệ tử, lúc thiền định ...

Ma Nạp thưa:

–Cung cách, nghi dung của Cù Ðàm là như vậy. Sự trình bày của con giống như một giọt nước trong biển cả, không phải là chỗ thâm tưởng các thánh có thể biết được, chư thiên không thể hiểu hết, đất trời không thể luận bàn được. Vòi vọi thay bậc Vô thượng. To lớn thay không biên giới, không thể đo, không thể lường, khó mà nói cho hết được.

Phạm Ma Dụ nghe đệ tử nói về cái đức của đấng Thiên sư, ngạc nhiên rơi nước mắt mà nói rằng:

–Tuổi của ta như mặt trời sắp lặn, mãi chỉ sống uổng chết uổng mà không thấy được bậc thượng minh, thầy của trời.

Phạm Ma sung sướng rơi lệ nói:

-Ta nên đến gặp ngài để thấy được đức Phật, dù chết cũng vinh.

Rồi than thở rằng:

-Người ngu tuy có tuổi thọ của đất trời nhưng nào khác gì đất đá.

Ông liền đứng lên, sửa lại y phục, năm vóc gieo xuống đất, cúi lạy ba lần nói rằng:

–Con quy y Phật, quy y Phápquy mạng thánh chúng. Mong cho con lúc tuổi thọ còn sống sót được thân cận chiêm ngưỡng, đảnh lễ Thế Tôn và mong được hóa độ.

Ðức Phật dùng ánh sáng của lục thông thấy Phạm Ma tự quy y Phật, từ xa Ngài thọ ký cho vị ấy.

Ðức Phật từ nước Tùy Ðề, đến nước Di Di, ngồi dưới một gốc cây. Quốc vương, quần thần, thệ tâm, lý gia dần dần truyền nhau rằng:

–Sa môn Cù Ðàm xuất thân từ nhà họ Thích, con của vị đế vương, ở tại Xà Lê, nhưng nay thanh tịnh, chí tánh đạm bạc, không có sự ô uế của tham dâm, độc hại của nhuế nộ, tối tăm của ngu si, là bậc tối thượng của các Thánh, giống như ngôi sao có mặt trăng, thần đức rưới khắp, chư thiên tôn kính, là đức Như Lai, Ứng nghi, bậc Chánh chơn giác, đã hết vô minh ô uế, trí tuệ sáng ngời độc chiếu. Dù thần thánh tuy nhiều cũng không sánh kịp, bậc đứng giữa càn khôn, vị ấy thấy những việc khúc chiết, chấp trước vi tế trong mười phương, những mầm mống chưa sanh ở đương lai, chẳng chuyện gì mà chẳng biết. Những lời hay đẹp vị ấy nói ra tất cả đều chơn thật.

Quốc vương, quần thần, thệ tâm và cao sĩ đều bỗng nhiên nói rằng:

-Sanh thời chúng ta làm sao được gặp vị Thiên sư, đấng đáng tôn quý, đáng đội lên đầu, nên đến đảnh lễ để được thấm nhuần sự thuần hóa.

Nhơn đó họ cùng nhau hội tụ, xe ngựa, bộ hành và tự mình đến đảnh lễ dưới chân đức Phật, quỳ xuống chắp tay, tự nói lên tên mình, rồi đều ngồi xuống im lặng.

Phạm Ma Dụ nghe đức Phật cùng Thánh chúng đồng đến, hết sức vui mừng, bảo các đệ tử đồng đến chỗ đức Phật. Vừa đến ven rừng, vị ấy nghĩ rằng: “Trước hết ta hãy bảo người đến nói lên tấm lòng chí thành của ta đối với đức Phật. Nếu tự mình đi thẳng tới là không đúng pháp chăng?”.

Ông liền bảo đệ tử:

–Ngươi hãy nhân danh ta, đến cúi lạy dưới chân đức Phật, thưa rằng: Thệ tâm Phạm Ma Dụ, đã một trăm hai mươi tuổi, khao khát lời dạy của Thánh, muốn được chiêm ngưỡng luồng gió mát lành. Thưa Cù Ðàm, thân thể có thường an lạc, đạm bạc, vô dục chăng? Nay con đến xin yết kiến.

Người đệ tử đảnh lễ thầy, liền đến chỗ đức Phật, cúi lạy xong, trình bày đầy đủ lời thỉnh cầu của thầy mình, rồi vị ấy hướng về phía đức Phật, tán thán thầy mình rằng:

–Quốc sư Phạm Ma Dụ rộng thông các kinh, quán thông mấu chốt những lời sấm ký bí mật, ở yên trai phòng, dự biết thiên văn, đồ thơ, việc tốt, việc xấu, chẳng gì mà chẳng biết. Nhưng vì ở đời này có vị thầy của trời, thân cao một trượng sáu, da có màu vàng tía, có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, là vị trời giữa trời, là vua trong các thánh, cho nên nay thầy con đến quy mạng Tam tôn, hiện đang đứng gần ngoài rừng cây, chưa dám tự đến, mong được ra mắt Thế Tôn để cung kính Ngài.

Ðức Thế Tôn liền nói:

–Lành thay! Mời vào.

Các đệ tử vâng lệnh trở ra, đem lời dạy rõ ràng của đức Phật trình bày đầy đủ với thầy. Vị thầy liền cúi lạy dưới đất, vui mừng bước vào. Các Thệ tâm, trưởng giả, lý gia ở trong nước từ xa thấy thầy mình bước vào, cung kính vòng tay, cúi đầu. Phạm Ma Dụ nói với mọi người:

-Các ngươi hãy ngồi xuống. Nay ta ngồi gần một bên pháp ngự của Thế Tôn Cù Ðàm.

Ông liền lấy năm vóc gieo xuống đất, cúi lạy chân đức Phật, cung kính ngồi xuống, im lặng lắng lòng, nhìn kỹ tướng của đức Phật. Ông liền thấy ba mươi hai diệu tướng của đức Phật, nhưng có hai tướng không hiện, ông sanh nghi, cúi lạy dưới đất dùng kệ để hỏi đức Phật rằng:

Trong kinh điển Phạm chí

Sấm ghi điều quan trọng

Trược thế vua Tịnh Phạn

Hoàng hậu tên Thanh Diệu

Thái tử tên tất Ðạt

Thân sắc màu vàng tía

Thân có tướng Thiên tôn

Lánh đời theo chánh đạo

Chánh chơn tướng vô thượng 

Ðủ ba hai tướng chăng?

Trinh khiết, Âm mã tàng

Vô dục đặc biệt chăng?

Có tướng lưỡi rộng dài

Che mặt, tới mép tai

Thuyết pháp hơn các Thánh

Phạm, Thích khó được nghe

Thầy dẫn đường trời, người

Hay dứt các nghi ngờ

Giữ đạo, sống an nhàn

Ðời sau thành Phật chăng?

Phật chứng được Nê hoàn

Xa lìa tam giới chăng?

Tâm, ý, thức, hồn linh

Diệt các khổ được chăng?

Phạm chí đã trình bày sự nghi trong tâm của mình, đức Phật biết rõ trong tâm của Phạm chí nghi về hai tướng. Ngài liền dùng thần túc hiện tướng Âm mã tàng, rồi Ngài đưa cái lưỡi rộng dài ra che khắp cả mặt, chấm đến hai bên mép tai. Hào quang trong miệng chiếu sáng cả nước Di Di, nhiễu quanh thân Ngài ba vòng rồi trở vào miệng lại. Ðức Phật liền đáp rằng:

–Ðiều ông đã hỏi về ba mươi hai tướng của Ðại sĩ, thân tướng của ta đầy đủ tất cả, chẳng thiếu tướng nào. Từ vô số kiếp đến nay, ta thực hành bốn đẳng tâm, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, cứu tế chúng sanh như tự cứu mình, dứt mong cầu, niệm không, giữ vô tưởng định, tâm ô uế đã trừ sạch, không còn hiện hữu nữa. Từ khi tập hạnh này đến đây, các tai ương trừ hết, vạn điều thiện chứa nhóm liền thành thân Phật, tướng tốt quang minh, đi một mình trong ba cõi, vĩnh viễn xa lìa sự ngu si tối tăm trong năm đường, được ánh sáng vô thượng, chí tôn, cho nên gọi là Phật. Nếu có sự độc hại của tham dâm, giận dữ, ngu si, sự tối tăm của năm ấm, sáu suy, nhỏ như sợi tơ sợi tóc còn sót lại ở tâm thì vẫn không thành Phật đạo. Chưa có người, vật nào bì kịp. Ngày nay tâm niệm của chúng sanh, từ phương nào đến, chưa rõ trong vô số kiếp, sự quanh co, sâu xa, nếu có điều nào không biết, thì đó chẳng phải là Phật. Bốn vô sở úy, tám thinh, mười lực, mười tám bất cộng pháp, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, nếu thiếu một cái thì chẳng phải là Phật. Nay ta đầy đủ, chẳng thiếu vật gì, cho nên gọi là Phật. Sa môn đã được đạo Ứng nghi, có thể phân một thân ra thành mười thân, mười thân thành trăm thân, trăm thân thành ngàn thân, ngàn thân thành vạn thân, vạn thân thành vô số thân; lại có thể hiệp vô số thân trở lại thành một thân. Lấy ngón chân ấn xuống mặt đất thì ba ngàn đại thiên thế giới thảy đều chấn động. Nhờ tâm hành được định vô dục cho nên mới có khả năng như vậy, huống gì là Phật. Cái đức một tướng lông mày của Phật, hằng sa công đức có thể biết được, cái tướng giữa lông mày thì khó có thể trù tính được công đức, huống chi cái đức toàn thân Ngài? Lại nói: Phạm chí tin Phật, Tam tôn thì đời hiện tại được an ổn, lúc mạng chung được sanh lên trời, hễ muốn thì nghỉ, hễ nghi thì hỏi, đừng ngại khó khăn.

Phạm chí nghĩ rằng: “Những điều Sa môn Cù Ðàm nói ra huyền diệu sâu xa, ta chẳng còn gì để hỏi nữa”. Lại nghĩ: “nay ta nên hỏi việc đời này chăng, hay việc đời sau?”. Trong ý ông lại nghĩ: “Những việc trọng yếu của ba đời, chỉ có Phật là biết rõ, đâu phải tiên, thánh, quần nho mà biết được”. Phạm chí thưa:

–Sao gọi là Thệ tâm? Sao gọi là thông đạt? ? Sao gọi là tịnh? Sao gọi là tịch nhiên? Sao gọi là Phật.

Ðức Phật trả lời Phạm chí:

–Ta có lời chơn thật để giải thích cho ngươi, hãy lắng lòng mà nghe: người được ba thần túc thì gọi là Thệ tâm. Biết rõ việc xưa, phân biệt sanh địa, dùng đạo nhãn nhìn xem núi đá, núi đá vẫn không ngăn cản, quyết đán sự tối tăm, giải thích sự nghi ngờ, thấu rõ ba đời, gọi là thông đạt. Nhờ được lục thông, tâm cấu uế đã trừ sạch gọi là tịch nhiên. Ðã diệt ba độc, tâm như Thiên kim gọi là thanh tịnh. Gốc si sanh tử diệt sạch không còn, đạo hạnh thanh tịnh rưới khắp ba cõi, các si mê đã tìm ra, chẳng có gì mà chẳng đạt được, được Nhất thiết trí, tôn hiệu là Phật.

Phạm chí vui mừng đứng dậy, năm vóc gieo xuống đất, đầu mặt lạy dưới chân đức Phật, dùng miệng hôn chân Phật, lấy tay xoa chân đức Phật, lại tự xưng tên rằng:

–Con là Phạm Ma Dụ, là Thệ tâm, xin quy mạng đức Phật, quy mạng Pháp và quy mạng tăng.

Ông rơi nước mắt, nói rằng:

–Chúng sanh chúng con bị sáu thứ suy che lấp, thấy Phật không thờ, thấy kinh không đọc, thấy Sa môn không có tâm kính yêu, không mong nhờ sự thần hóa nên mãi mãi suy vi.

Các môn đồ của Phạm chí thấy thầy của mình hết lòng thành khẩn, nhìn nhau nói rằng:

-Tôn sư của chúng ta thấu triệt kinh điển, không sách nào mà không xem, danh tiếng vang lừng bốn nước, các nho sĩ đều tôn thờ, nay lại cúi mình, chắp tay đảnh lễ dưới chân Cù Ðàm, huống chi là bọn chúng ta?

Ðức Phật bảo Phạm chí:

–Hãy lại ngồi xuống, ta sẽ khai sáng tâm ông, có chơn tín huệ, hướng tới đức Như Lai.

Ông ta thọ giáo, ngồi xuống. Ðức Phật lại thuyết công đức của sự trì giới, phước báo của sự bố thí, bỏ sự dơ bẩn uế trược của gia đình, khen ngợi thượng hạnh của chí đạo. Ðức Phật biết Phạm chí là bậc thượng sĩ có tâm hoan hỷ, hiểu rộng. Ðức Phật nói cho ông nghe về sự rất trọng yếu của đạo: vạn mối khổ đau đều do thân mà ra. Người trí tuệ thâm chiếu biết sự ấy là mê hoặc, nếu ngược dòng tìm gốc, đạt được cái gốc của không. Ở đây gọi là bậc Thượng sĩ huệ minh chơn đế, không biết sự khổ của thân rất nhiều, khổ là do tập sanh, bậc Thượng sĩ biết như vậy, sự biết rõ ấy là chơn đế, ba cõi như huyễn, có hiệp phải có ly, vậy cái gì thạnh mà không suy? Nhân duyên họp tức tai họa sanh, nhân duyên ly tức khổ diệt. Bậc Thượng sĩ quán sát ngay căn bản mới biết nó vốn không. Sự biết rõ ấy là chơn đế. Nhờ biết vốn không liền kiến lập tam giới, tam không, Hạnh tịch, không mong cầu các dục, được vô tưởng định. Trong tâm cứ giữ ba ngôi tôn quý là được.

Tâm Phạm chí khai mở, giống như miếng vải trắng phau, không ô uế, đem nhuộm thành màu sắc, tâm Phạm chí cũng vậy, đã nhiều kiếp thường tôn thờ chư Phật, gìn giữ giới thanh tịnh rồi, nên nay nghe đức Thế Tôn dạy, hiểu tất cả giác đạo chánh chơn vô thượng. Tâm ô diệt sạch, nhập vào ba môn giải thoát, mãi lìa các khổ. Ông lại bạch đức Phật:

–Lúc con chưa thấy đức Phật, con đã ôm lòng hành động hết sức sai lầm, bị mắt mù che lấp, tin người cuồng ngu, gọi đó là chơn đế. Nay mới gặp Phật, bệnh cuồng đã hết, cái thấy mù, cái nghe điếc, nói câm, thân gù, người ở nhà tù ... đã được thoát khỏi; làm kẻ khổ đau, ngu hoặc, sống uổng chết uổng, không nếm được mùi vị chơn đạo của thiên tôn, cứ mãi ở trong lửa cháy, khổ đau, cuộc đời của con khổ đau biết bao! Nay đây may thay được gặp đức Phật, đã thuyết cho con nghe về sự rất trọng yếu của đạo, khiến cho con được trở về căn bổn vô vi trường tồn. Từ nay về sau, con xin quy y Phật, quy y Phápquy y Tỳ kheo tăng, nguyện làm thanh tín sĩ (ưu bà tắc), giữ lòng nhơn từ, không sát sanh, sống tri túc không có trộm cắp, trinh khiết không dâm, giữ chữ tín không nói láo, hết lòng hiếu thảo, không uống rượu say sưa. Ðức Thiên tôn thương xót con! Sáng mai con thỉnh Ngài cùng thánh chúng hạ cố thọ dụng bữa cơm đạm bạc của con cúng dường.

Ðức Phật im lặng nhận lời.

Trong tâm Phạm chí vui mừng, cúi lạy dưới chân đức Phật, trở về nhà sửa soạn bữa cơm trăm vị ngon bổ và lúc hừng sáng, đi đến chỗ đức Phật, đảnh lễ, quỳ gối, cung kính bạch đức Phật rằng:

-Nay đã đúng thời, cúi mong đức Thế Tôn hạ cố.

Ðức Phật mặc pháp phục, cùng Thánh chúng đồng đến nhà Phạm chí, tất cả đều ngồi xuống pháp tòa. Phạm chí tự tay múc nước rửa, hết lòng cung kính cúng dường. Như vậy cho đến bảy ngày.

Ðức Phật thuyết pháp thuần hóa cho ông nghe xong ngài trở về nước Tùy Ðề. Sau đó không bao lâu thì Phạm chí mạng chung. Các Tỳ kheo nghe như vậy, cùng báo đức Phật:

-Bạch Thế Tôn, Phạm chí này chết sẽ sanh vào đâu?

Ðức Thế Tôn bảo:

-Phạm chí này là bậc thánh tâm hiểu rộng, sẽ được quả Bất hoàn. Ngũ cái đã hết, thanh tịnh như trời vàng, vị ấy ở đó được thanh tịnh, đắc quả ứng chơn A la hán, đi đến vô vi (Niết bàn).

Ðức Phật nói kinh xong, các Tỳ kheo vui mừng

PHẬT NÓI KINH PHẠM MA DỤ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21770)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22233)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23605)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24757)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18990)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24766)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30977)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23992)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27765)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26517)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21321)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23231)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38138)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18802)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19978)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19050)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23173)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23887)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22816)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22917)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29583)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20646)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18711)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15848)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18863)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19685)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20159)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19957)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18127)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22944)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34168)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16424)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16920)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39255)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26080)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20099)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18859)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24066)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29146)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22904)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30967)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21012)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26857)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26268)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23327)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19820)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24685)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30047)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20227)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20408)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15840)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23903)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19863)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant