Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Con Của Bà La Môn Thương Nhớ Không Nguôi

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13157)
Kinh Con Của Bà La Môn Thương Nhớ Không Nguôi


PHẬT NÓI KINH CON CỦA BÀ LA MÔN MẠNG CHUNG THƯƠNG NHỚ KHÔNG NGUÔI


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0091 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Hậu Hán, An Thế Cao.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o--- 


 

Nghe như vầy:

Một thời Bà già Bà ở tại rừng cây ông Kỳ Ðà, vườn ông Cấp Cô Ðộc, nước Xá vệ.

Bấy giờ có một Bà la môn khác có một người con bị chết, ông thương nhớ không nguôi. Khi con chết, ông không thể ăn, không thể uống, không mặc y phục, cũng không xoa hương vào người nữa. Ông chỉ đến gò mả để khóc lóc. Ông khóc lóc vì nhớ lại lúc bồng bế đứa con trên tay. Khi ấy Bà la môn từ từ đi đến chỗ đức Thế Tôn. Ðến rồi, cùng Thế Tôn chào hỏi, an ủi xong Bà la môn ngồi qua một bên, đức Thế Tôn hỏi:

-Này Bà la môn, tại sao các căn của ngươi không được ổn định?

-Này Cù Ðàm, ý căn của tôi làm sao ổn định cho được? Tôi có một đứa con đã chết nên thương nhớ mãi không dứt. Nó chết rồi tôi không thể ăn, không thể uống, không mặc y phục, không xoa hương thơm. Tôi chỉ ngồi ở nhà để khóc. Khi khóc thì tôi nhớ lúc bồng ẵm nó.

-Như vậy! Như vậy, Bà la môn! Này Bà la môn, khi ái đã sanh thì sẽ có buồn rầu, khổ não, không vui.

-Thế nào, thưa Cù Ðàm, khi ái đã sanh thì sẽ có buồn rầu, khổ não, không vui? Này Cù Ðàm, khi ái đã sanh sẽ có hoan hỷ, thương nhớ.

Ông nói như vậy cho đến lần thứ ba. Ðức Thế Tôn bảo Bà la môn ấy:

-Như vậy! Như vậy, Bà la môn! Này Bà la môn, khi ái đã sanh, chắc chắn sẽ có ưu sầu, khóc lóc, không vui.

Ngài cũng ba lần trả lời như vậy, Bà la môn ấy bạch với đức Phật:

-Tại sao, này Cù Ðàm, trong khi ái đã sanh thì lại có ưu sầu không vui? Này Cù Ðàm, khi ái đã sanh rồi chỉ có hoan hỷ, thương nhớ thôi.

Bấy giờ Bà la môn nghe đức Thế Tôn nói như vậy cũng không vui, không cho là sai, không vui, không đúng, rồi từ tòa đứng dậy bỏ đi.

Lúc ấy, ở ngoài cửa Kỳ Hoàn có các người vui đùa đang đùa giỡn. Bà la môn ấy từ xa trông thấy ở ngoài cửa Kỳ Hoàn có các người vui đùa đang đùa giỡn, thấy rồi liền nghĩ: “Người thông minh của thế gian thì cho đây là tối thắng. Ta hãy đem những điều luận đàm với Sa môn Cù Ðàm nói hết cho những người vui đùa này nghe”. Bấy giờ Bà la môn ấy liền đến chỗ những người vui đùa, đến rồi đem tất cả những điều đã luận đàm với Thế Tôn nói cho những người này nghe. Nói như vậy xong, những người vui đùa này nói với Bà la môn rằng:

-Này Bà la môn, khi ái đã sanh làm gì có ưu sầu khổ đau, không vui. Này Bà la môn, lúc ái đã sanh sẽ được hoan hỷ, thương nhớ.

Bấy giờ Bà la môn nghĩ như vầy: “Lời nói của những người vui đùa này giống như ta”, rồi ông bỏ đi.

Những lời đàm luận ấy được nhiều người nghe, dần dà đồn đến cung vua, vua Ba Tư Nặc nghe được rằng: “Sa môn Cù Ðàm nói như vầy: lúc ái đã sanh thì sẽ có ưu sầu, khổ não, không vui”. Vua Ba Tư Nặc nghe rồi nói với phu nhân Mạt Lị rằng:

-Này Mạt Lị, ta nghe Sa môn Cù Ðàm nói như vầy: khi ái sanh thì sẽ có ưu sầu, khổ não, không vui.

-Như vậy, như vậy tâu đại vương, khi ái sanh thì chỉ có ưu sầu, khổ não, không vui mà thôi.

- Này Mạt Lị, ta nghe thầy của ngươi nói thì đệ tử cũng nói như vậy. Này Mạt Lị, Sa môn Cù Ðàm kia là thầy của ngươi nên nay ngươi cũng nói như vầy: khi ái đã sanh thì chắc chắnưu sầu, khổ não, không vui.

-Tâu đại vương, nghe lời tôi nói Ngài không tin sao? Vậy ngài có thể tự đi hay bảo sứ giả đến để hỏi Thế Tôn xem.

Bấy giờ vua Ba Tư Nặc bảo Bà la môn Na Lê Ương Già rằng:
-Này Na Lê Ương Già, hãy đi đến chỗ Sa môn Cù Ðàm. Ðến rồi hay đem lời của ta thăm hỏi Sa môn Cù Ðàm rằng: ta hết lời thăm hỏi Ngài có an ổn, đi đứng có nhẹ nhàng, sức khỏe chăng? Nói như vầy: Thưa Cù Ðàm, vua Ba Tư Nặc hết lời thăm hỏi sức khỏe của Ngài có an ổn, đi lại có nhẹ nhàng, sức khỏe chăng? Có thật Sa môn Cù Ðàm nói như vầy: “Khi ái đã sanh thì chắc chắnưu sầu, khổ não, không vui chăng?”. Này Na Lê Ương Già, nếu Sa môn Cù Ðàm nói như vậy, ngươi hãy thọ trì, ghi nhớ kỹ. Vì sao vậy? Vì Ngài không bao giờ nói lời hư dối.

Bà la môn Na Lê Ương Già cấp tốc vâng lời dạy của vua Ba Tư Nặc rồi đi đến chỗ đức Thế Tôn, đến rồi cùng chào hỏi, thăm sức khỏe đức Thế Tôn. Khi đã cùng nhau chào hỏi thăm viếng xong, liền ngồi qua một bên. Bà la môn Na Lê Ương Già đã ngồi qua một bên rồi, bạch đức Thế Tôn:

-Thưa Cù Ðàm, vua Ba Tư Nặc hết lời thăm hỏi Ngài có an ổn, có đi đứng nhẹ nhàng, sức khỏe không? Quả thật Sa môn Cù Ðàm có nói rằng: “Khi ái đã sanh thì chắc chắnưu sầu, khổ não, không vui chăng?”.

-Này Na Lê Ương Già, ta lại hỏi ngươi, tùy theo sự hiểu biếttrả lời ta. Này Na Lê Ương Già, ý ngươi nghĩ sao, hoặc có người mẹ mạng chung, vì mẹ mạng chung nên người con tâm ý cuồng loạn, trần truồng không mặc y phục, người con đến đâu cũng nói: “Ta không thấy mẹ! Ta không thấy mẹ!”. Này Bà la môn nên biết, khi ái đã sanh thì chắc chắnưu sầu, khổ não, không vui. Cũng như vậy, đối với cha, anh, chị, em hay vợ mạng chung, vì vợ mạng chung nên kẻ ấy tâm ý cuồng loạn, trần truồng không mặc y phục, kẻ ấy đến đâu cũng nói: “Ta không thấy cha ta, vợ ta!”.

Này Bà la môn, xưa có một người vợ khi trở về nhà, thân thuộc của nàng muốn cưỡng đoạt nàng đem cho người khác. Nàng nghe rằng: “Thân thuộc muốn bắt ta đem cho người khác”. Nghe như vậy xong, nàng cấp tốc chạy về nhà chồng. Ðến rồi nàng nói với chồng rằng: “Anh nên biết, thân thuộc của em muốn bắt em đem cho người khác. Anh muốn làm gì thì làm ngay bây giờ đi”. Bấy giờ người chồng cầm con dao thật bén, nắm tay người vợ kéo vào trong nhà, nói như vầy: “Hãy cùng đi với nhau! Hãy cùng đi với nhau!”. Anh đâm vợ chết rồi tự sát. Này Bà la môn, nên biết do ái này sanh ra nên có ưu sầu, khổ não, không vui.

Bấy giờ Bà la môn Na Lê Ương Già nghe đức Thế Tôn nói rồi, khéo thọ trì ghi nhớ, rồi từ tòa đứng dậy, nhiễu quanh đức Thế Tôn, giã từ Ngài trở về. Khi về đến chỗ vua Ba Tư Nặc , đến rồi thưa với vua rằng:

-Thật đúng như vậy, thưa đại vương! Sa môn Cù Ðàm đã nói như vầy: “Khi ái đã sanh thì có ưu sầu, khổ não, không vui”.

-Cho nên, này đại vương, tôi lại hỏi vua, tùy theo sự nhận xét mà ngài trả lời. Này đại vương, ý ngài nghĩ thế nào? Ngài có thương đại tướng Tỳ Lưu Ly chăng?

-Này Mạt Lợi, ta thương đại tướng Tỳ Lưu Ly.

-Thưa đại vương, đại tướng Tỳ Lưu Ly nếu bị bại hoại, bị tai nạn đi, ngài có sanh ra khổ đau, buồn rầu không vui chăng?

-Này Mạt Lợi, nếu đại tướng Tỳ Lưu Lybại hoại, tai nạn, ta sẽ ưu sầu, khổ não, không vui.

-Này đại vương, cứ lấy đó mà biết, hễ ái sanh ra thì có ưu sầu, khổ não, không vui. Này đại vương, ý vua thế nào? Ngài có yêu thương đại tướng Hiền Thủ, yêu thương con voi lớn Bôn Ðà Lợi, yêu Bà Di Ðề Nữ, yêu phu nhân Bà Sa Sát Ðế Niệu, yêu nhân dân Ca Thi chăng?

-Này Mạt Lợi, ta yêu nhân dân Câu Tát LaCa Thi.

-Này đại vương, nhân dân Câu Tát LaCa Thi bị tán hoại, tai nạn, ngài có sanh khổ não, ưu sầu không vui chăng?

-Này Mạt Lợi, năm thứ nhu cầu để tự vui chơi đều do nhân dân Câu Tát LaCa Thi cung cấp cả. Này Mạt Lợi, nhân dânCa Thi mà bị tán hoại, tai nạn thì tánh mạng ta còn không được an toàn, huống chi lại không sanh ra khổ não, ưu sầu không vui chứ!

-Này đại vương, nên biết do ái này sanh ra nên có ưu sầu, khổ não, không vui. Ý đại vương nghĩ thế nào? Nay ngài có thương thiếp không?

-Này Mạt Lợi, ta rất thương nàng.

-Này đại vương, nếu thiếp bị bại hoại hay tai nạn, há lại ngài không sanh ra khổ não, ưu sầu không vui sao?

-Nếu Mạt Lợi bị bại hoại, tai nạn, ta rất ưu sầu, khổ não, không vui chứ!

-Này đại vương, do đây nên biết, nếu ái đã sanh rồi thì sẽ có khổ não, ưu sầu không vui.

-Này Mạt Lợi, kể từ ngày hôm nay, nhân việc này Sa môn Cù Ðàm là thầy của ta, ta là đệ tử của Ngài. Này Mạt Lợi, nay ta quy y đức Thế Tôn, Pháp và Tỳ kheo tăng. Ta thọ giới Ưu bà tắc của đức Thế Tôn. Kể từ ngày nay ta bắt đầu không sát sanh..., hôm nay tự quy y Phật.

Nói như vậy, vua Ba Tư Nặc từ xa nghe lời dạy của đức Thế Tôn, hoan hỷ vui mừng

KINH CON CỦA BÀ LA MÔN MẠNG CHUNG THƯƠNG NHỚ KHÔNG NGUÔI

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34616)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33436)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43909)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57037)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47545)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39414)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38466)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52922)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36591)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32234)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40447)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43471)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31440)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46698)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36175)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28685)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29217)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31880)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28803)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33350)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29117)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60970)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39724)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26652)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29644)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37355)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40075)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26827)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42643)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37272)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28278)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28891)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26389)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27156)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26180)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34611)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27797)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30459)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33272)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28551)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30058)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25476)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21837)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51282)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26710)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28615)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27690)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24344)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27452)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31918)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30175)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27691)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35426)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27433)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30000)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31760)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23009)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24174)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23010)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26643)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant