Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phổ Pháp Nghĩa

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13553)
Kinh Phổ Pháp Nghĩa


PHẬT NÓI KINH PHỔ PHÁP NGHĨA

 

Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0098 - Nguyên tác Hán ngữ  [1]

Hán dịch: Hậu Hán An Thế Cao dịch

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o--- 


Nghe như vầy:

Một thời đức Phật ơ rừng cây Kỳ Ðà, vườn ông Cấp Cô Ðộc, nước Xá vệ.

Bấy giờ, hiền giả Xá Lợi Phất mời các Tỳ kheo nghe thuyết pháp, phần đầu cũng thiện, phần giữa cũng thiện, phần cuối cũng thiện, khéo giải phân biệt, thanh tịnh tròn đầy: “Hãy lắng nghe, hạnh của hiền giả gọi là pháp hạnh đầy đủ. Khéo suy nghĩ kỹ”

Các Tỳ kheo theo lời của hiền giả, theo hiền giả Xá Lợi Phất để nghe pháp.

Hiền giả Xá Lợi Phất liền nói mười hai thời tụ hội, có thể đưa hiền giả đến Thánh đạo. Những gì là mười hai?

1. Tự mình có thể dạy mình.

2. Cũng có thể dạy người khác

3. Sanh vào nhân đạo

4. Sanh vào hàng Tháng giả

5. Các căn đầy đủ

6. Không theo nghiệp thế gian

7. Thấy hiền giả thì vui mừng

8. Gặp Phật xuất thế

9. Nghe Phật thuyết pháp

10. Ðã nghe thuyết pháp có thể lãnh Hội.

11. Có thể nghe sự giáo thọ bên ngoài.

12. Có thể theo lời Phật dạy, như lý tu hành.

Ðây là mười hai thời tu hội của hiền giả, đưa đến sự đắc đạo của hiền giả, theo đó mà thực hành.

Nếu muốn thuyết kinh cho người khác nghe, phải thuyết hai mươi phẩm này. Những gì là hai mươi?

1- Thiện quyết.

2- Nói đầy đủ.

3- Nói có trước.

4- Nói theo thứ lớp.

5- Nói một các Hoan hỷ.

6- Nói điều đáng nói.

7- Nói điều cởi mở tư tưởng.

8- Nói điều ngăn chận giải đãi.

9- Không nói điều trách lỗi.

10- Nói lời hài Hoà.

11- Nói lời thích ứng.

12- Không nói lời ly tán.

13- Vì pháp mà nói.

14- Vì tùy chúng mà nói.

15- Vì khế cơ mà nói.

16- Vì hộ trợ ý mà nói.

17- Vì chẳng phải tiếng đồn mà nói.

18- Không phải vì việc lợi mà nói.

19- Không ức khuyết.

20- Không bị người chi phối.

Nếu hiền giả Tỳ kheo muốn thuyết pháp cho người khác nên theo hai mươi phẩm này mà thuyết.

Tôn giả Xá Lợi Phất lại bảo các Tỳ kheo:

-Người muốn nghe pháp phải có mười sáu hành động. Những gì là mười sáu?

1. Nên nghe đúng lúc.

2. Cần phải nghe đầy đủ.

3. Nên chú ý nghe.

4. Phải nên phụng sự.

5. Không nên bình phẩm chê trách.

6. Không nên chê trách lỗi lầm.

7. Chớ tìm cầu sở trường, sở đoán của người khác.

8. Nên vì pháp mà cung kính.

9. Phải cung kính người thuyết pháp.

10. Chớ coi thường pháp.

11. Cũng chớ coi thường người thuyết pháp.

12. Chớ nên quá tự ti.

13. Nhất tâm lắng nghe.

14. Không có ý gì khác.

15. Giữ tâm chân chánh.

16. Ðương niệm khi nghe pháp.

Nếu hiền giả muốn nghe pháp nên ghi nhớ mười sáu điều thì có thể nghe pháp. Những gì là mười sáu?

1-Nghe pháp đúng lúc.

2-Có thể nghe nhiều.

3-Chú tâm nghe pháp.

4-Phụng thờ pháp đáng nghe.

5-Không được quở trách pháp đáng nghe.

6-Khi nghe pháp chớ tìm cầu các khuyết điểm.

7-Vì kính pháp nên nghe pháp.

8-Vì kính người thuyết kinh nên nghe pháp.

9-Chớ coi thường pháp khi nghe pháp.

10- Chớ coi thường người thuyết pháp mới có thể nghe pháp.

11- Không nên quá tự ti, đối với pháp đáng nghe.

12- Vì một lòng hướng về pháp đáng nghe.

13- Không ý gì khác đối với pháp đáng nghe.

14- Giữ ý chơn chánh đối với pháp đáng nghe.

15- Ðương niệm đối với pháp đáng nghe.

16- Ðịnh ý đối với pháp đáng nghe.

Nếu hiền giả muốn được nghe pháp nên ghi nhớ mười sáu sự so sánh đối với pháp đáng nghe. Ðã nghe pháp như trên liền sanh đức tin khả ý, từ đó đưa đến vô vi. Ðã nghe pháp như vậy liền sanh ra sự ưa thích vô dục của hiền giả, từ đó đưa đến Vô vi. Ðã nghe pháp như vậy liền sanh ra trong ý cảm thọ niềm vui, từ đó đưa đến Vô Vi. Ðã nghe pháp như vậy, được xả nghi kiến, lại được rõ điều tối thượng, từ đó đưa đến Vô Vi. Ðã nghe pháp như vậy liền bỏ ác, giữ ý nơi chánh định, từ đó đưa đến Vô Vi. Ðã nghe pháp như vậy liền thấy Ấm là vô sỡ hữu, liền thấy Ấm là trống không, liền thấy Ấm là vật hèn mọn, đã thấy như vậy ý liền được giải, ý liền thanh tịnh, ý được đình chỉ, ý liền giải thoát. Như vậy từ đó đưa đến Vô Vi. Ðã nghe pháp như vậy, tất cả hành của thế gian là trống Không, Không còn an trụ trong đó nữa, liền đạt hết ái lìa diệt, liền làm cho ý vô vi, chuyển ý, được đình chỉ. Ðược giải thoát, từ đó đưa đến vô vi. Ðã nghe pháp như vậy rồi, hành tướng của các pháp dục theo hạnh ở riêng một mình để đoạn vọng, được đệ nhất nguyện, tức là từ đó đưa đến vô vi. Ðã nghe được pháp như vậy rồi, dùng con mắt thanh tịnh thấy Tứ Ðế từ đó đưa đến vô vi. Ðã nghe pháp như vậy rồi phụng hành đầy đủ, từ đó đưa đến vô vi. Ðã nghe như vậy rồi, hiền giả dạy đệ tử Không được nói những việc gây phiền não, phải nói điều làm cho người khác nghe xong được vui thích, cũng không phạm giới pháp, cũng tùy sự an ổn.

Tự mình mong được mười pháp này, đưa đến trí huệ. Những gì là mười?

1-Hoặc là thiện tri thức.

2-Hoặc khéo giữ giới.

3-Hoặc kẻ thiện đồng Học.

4-Hoặc biết thọ ý.

5-Hoặc giáo thọ.

6-Hoặc tham vấn.

7-Hoặc nghe kinh.

8-Hoặc vân tập lại để nói kinh.

9-Hoặc là nói nhân duyên của sự kinh sợ, đưa đến kinh sợ.

10- Tự mình xấu hổ về sự kinh sợ, căn bổn của sự quán xét lúc đó là căn bổn của sự quán xét đoạn tất cả ác pháp, có thể đoạn trừ căn bổn của sự quán xét. Trừ được pháp này liền định ý được tự tại.

Tất cả đều từ nơi quán xét căn bổn như vậy. Ðây là sự thật dạy đệ tử buông xả ngay từ gốc.

Có thể thực hành mười tư tưởng. Những gì là mười?

1- Nhớ nghĩ tư tưởng bất tịnh.

2- Tư duy phi thường.

3- Tư duy do phi thường đưa đến khổ.

4- Tư duy vì khổ cho nên chẳng phải thân.

5- Tư duy về đồ ăn là ô uế.

6- Tư duy về chúng vạn vật trong thiên hạ đều không vui sướng.

7- Tư duy đến cái chết.

8- Tư duy về vô minh.

9- Tư duy loại trừ ý.

10- Tư duy về diệt.

Nghĩ về tư tưởng bất tịnh, này hiền giả, là tùy thuận mười bốn tà pháp. Những gì là mười bốn?

1- Cùng ở chỗ thất ý.

2- Tụ hội nơi chỗ môi trường khởi tham.

3- Bệnh dục.

4- Tư tưởng bất tịnh.

5- Không thể đạt được quán bất tịnh.

6- Cùng làm việc với người làm việc ác.

7- Không biết điều phải.

8- Không tôn thờ.

9- Không học hỏi.

10- Không giữ các căn.

11- Ăn uống không độ lượng.

12- Ðầu đêm, cuối đêm không giác ngộ tu hành.

13- Không thể ở riêng một mình thiền định.

14- Không thể quán sát về tư tưởng phi thường.

Này hiền giả, vì theo tư tưởng dục, phi thường, khổ của thế gian nên rơi vào sáu pháp ác. Những gì là sáu?

1. Không biết đủ.

2. Không tinh tấn.

3. Bất tín.

4. Dục.

5. Không thích ngồi ở chỗ nhàn tịnh.

6. Không đạt được pháp quán tưởng khổ, phi thân, tư tưởng thấy thân ăn đồ ô uế hổn tạp?

Tư tưởng tham đắm mùi vị tham ái, không tu hành, tất cả vạn vật trong thiên hạ đều không có dục lạc, tư tưởng đối vạn vật trong thế gian hành tham dục, về cái chết một cách tà vạy, tùy theo mạng căn xa lìa tư tưởng tu hành sáng suốt.

Này hiền giả, có mười một thứ tà. Những gì là mười một?

1. Nghi.

2. Không nhớ.

3. Thân thô phù.

4. Ngủ nghĩ.

5. Tinh tấn quá mức.

6. Không tinh tấn.

7. Vui một cách hư vọng.

8. Sợ sệt.

9. Tư tưởng không tập trung.

10. Không tính toán.

11. Tư tưởng quán sắc thái quá và muốn lìa tư tưởng diệt đạo.

Nếu trụ nơi pháp khiến cho đoạn mất đạo, này hiền giả, liền làm khiến cho mất đạo, chưa hoại diệt, khiến hoại diệt.

Có ba pháp thái quá, những gì là ba?

1. Dục.

2. Ðoạn.

3. Tọa hành.

Tư tưởng bất tịnh, này hiền giả, phải đoạn trừ bằng mười bốn pháp. Những gì là mười bốn?

1. Không ở chỗ đông người .

2. Ðình chỉ ý.

3. Không xem tụ hội.

4. Tự thủ hộ.

5. Không có bệnh tham dục.

6. Không tùy thuận tư tưởng tịnh.

7. Không quán tư tưởng tịnh.

8. Không muốn ở chung với những hành nhân thế gian.

9. Không muốn thọ lãnh hành nghiệp thế gian.

10. Tự thủ hộ căn môn.

11. Biết tri túc trong việc ăn uống.

12. Ðầu đêm cuối đêm không hề ngủ nghĩ.

13. Nhàm chán dục, ở một mình.

14. Quán tưởng nhiều về bất tịnh.

Này hiền giả nhờ có đoạn trừ ái dục, thực hành nhiều tưởng về phi thường. Từ đó đoạn trừ ác dục, nhờ tưởng về phi thường, khổ, đã thực tập, thực hành, đã làm thật nhiều để đoạn trừ tham ái, nhờ quán tưởng về sự không vui của thế gian, đã tập, đã hành, đã làm thật nhiều, mà đoạn trừ sự cho thế giantốt đẹp, nhờ quán tưởng về cái chết đã tập, đã hành, đã làm thật nhiều để trừ ý tham sống lâu, nhờ đã đoạn trừ về tu tưởng tối tăm, đã tập, đã hành, đã làm thật nhiều, nhờ đó đoạn ái, nhờ diệt tưởng đã tập, đa hành, đã làm thật nhiều, được lìa tà kiến. Hãy thọ trì chắc thật như vậy.

Này hiền giả, đệ tử học đạo có hai mươi pháp làm cho không được tùy thuận đạo. Những gì là hai mươi?

1. Không ở chung với người hành đạo.

2. Không học hỏi.

3. Không biết làm việc thích ứng.

4. Bị điếc câm.

5. Làm hạnh ác.

6. Có ý tham,

7. Ða sự.

8. Ít tinh tấn.

9. Hủy hoại chỗ mình nương tựa.

10. Ưa hình sắc.

11. Tự khoe khoang.

12. Ðiên đảo.

13. Thất ý.

14. Tham.

15. Ở chung với người bất thiện.

16. Không giữ các căn.

17. Ăn uống không độ lượng.

18. Ðầu đêm cuối đêm không tu hành.

19. Không thích ở riêng một mình để thiền định.

20. Không quán như thật.

Ðó là hai mươi pháp, này hiền giả, khiến cho lìa bỏ đạo.

Có mười một cái chưa đoạn diệt, muốn được đoạn diệt. Những gì là mười một?

1. Dục.

2. Sắc.

3. Kiến tiện (?)

4. Có ngắm nhìn.

5. Không hao phí.

6. Thắng.

7. Ðắc pháp tướng.

8. Tùy.

9. Vấn.

10. Riêng tự thủ.

11. Quán như hữu.

Như vậy mới phù hợp.

Này hiền giả, dạy đệ tử có hai mươi pháp, những gì là hai mươi?

1- Cùng ở chung với người hành đạo.

2- Học hỏi.

3- Biết làm việc đúng lúc.

4- Không câm điếc.

5- Cùng làm.

6- Không tham.

7- Ít việc.

8- Không bỏ tinh tấn.

9- Không ngang ngược.

10- Không theo hình dáng.

11- Không kiêu căng.

12- Không điên đảo.

13- Thủ ý.

14- Không tham.

15- Ở chung với những người thiện.

16- Thủ hộ căn môn.

17- Ăn uống biết tri túc.

18- Ðầu đêm cuối đêm siêng năng tu hành.

19- Thích ngồi riêng một mình để tư duy.

20- Quán như hữu.

Nếu được vậy, hiền giả lại có hai mươi hai thời xứ để cho Sa Môn hành đạo mau đạt đến đích thì hãy quan sát. Những gì là hai mươi hai?

1- Ðã thọ lãnh sự không đoan chánh.

2- Ðã tạo nghiệp khác.

3- Vì ngã mạn mà nương tựa người khác.

4- Cho đến hết tuổi thọ chỉ cầu áo quần, đồ ăn uống, thuốc men chữa bệnh lúc ốm đau và ngọa cụ.

5- Suốt đời bị dục che lấp.

6- Thân hưởng dục lạcnhân gian cho đến lúc mạng chung. Ðã làm Sa Môn phải gấp quán sát như vậy.

7- Ðừng vì thân mình mà làm thương hoại kẻ khác.

8- Có thể ưa thích một mình ở khoảng trống.

9- Không theo tội mà thọ thực.

10- Ðừng vì thân mình mà làm mất giới.

11- Ðừng vì sự thông minh của mình mà nghị luận với đồng đạo.

12- Hãy khiến cho đạo của ta phù hợp với sự học bốn đức, để khi ta mạng chung, giả sử có kẻ đồng đạo đến hỏi, ta vẫn giải thích được, đừng ta khi đó mới tạm thời muốn hành đạo. Hãy quán như vậy.

13- Hãy khiến cho ta được cái quán “Ấm là phi thường”.

14- Hãy khiến cho ta được quán “Ấm là vô sở hữu”.

15- Khiến ta được cái quán “Ấm không quan trọng”, nên ý trở lại chỉ được giải thoát. Hành giải phải gấp quán như vậy.

16- Vì khiến cho ta đối với thế gian hành không, bất trước, ái tận, ly diệt, vô vi, nên ý hoan hỷ, đình chỉ thọ, được giải thoát rồi, xa lìa thời xứ của hình thể bệnh tật. Phải quán như vậy.

17- Vì sanh, do sanh chi phối mà chưa được vượt qua.

18- Vì già, do già chi phối mà chưa được vượt qua.

19- Vì bệnh, do bệnh chi phối mà chưa được vượt qua.

20- Vì pháp phải chết, do pháp chết chi phối mà chưa được vượt qua. Ðối với thân hình trôi qua rất gấp, phải quán như vậy.

21- Vì tất cả những điều ta yêu thích rồi sẽ biệt ly, hoặc biến mất, hoặc người ta lấy đi, hoặc bị chết, không thể tồn tại lâu dài. Thân hình đối với thời gian và xứ (không gian) trôi qua rất nhanh, phải phân biệt quán như vậy.

22- Mỗi người tùy thuộc hành động của mình mà có quả báo, tùy theo bản hạnh của mỗi người, tùy theo hành động của từng người mà thọ khổ, tùy theo sự hành động thiện hay ác của mỗi người mà phải thọ quả báo tương ứng. Thân hình đối với thời xứ trôi qua rất nhanh, phải quán gấp như vậy.

Ðó là hai mươi hai hạnh đã tập, đã hành, đã làm nhiều lần. Vậy sa môn cũng như hành già phải suy tư đầy đủ. Vì Sa môn đã suy tư một cách đầy đủ việc làm của mình, liền có thể đầy đủ bảy điều suy tư. Những gì là bảy?

1- Thường hạnh không ngừng nghĩ, liền được nhập đạo.

2- Không di chuyển.

3- Không tranh chấp.

4- Suy nghĩ chơn chánh.

5- Không khởi tâm kiêu mạn.

6- Cấm chỉthế gian mà cầu y phục.

7- Vì đình chỉ ý mà được tự tại.

Ðó là tâm, ý, thức của hiền giả suốt cả ngày đêm lâu dài đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc chạm êm diệu ở thế gian mà không kềm chế được thì nay có thể chế phục, đình chỉ được, liền nhập vào giòng họ cam lồ. Ðã làm được như vậy, hiền giả có hai chục chủng hạnh, chưa được đắc đạo, sẽ làm cho ý bị khủng hoảng. Những gì là hai chục chủng hạnh?:

1- Không có sự thâm nhập vào không.

2- Không học về cái chết.

3- Nương tựa vào chỗ thấp nhỏ.

4- Không sợ nghiệp.

5- Không biết, không sợ nghiệp.

6- Không biết đạo.

7- Không được định ý.

8- Ðời đau khổ.

9-Khó gặp các hiền giả.

10- Ở thế gian, không khác người thế gian.

11- Chưa làm cây cầu để thoát khỏi địa ngục.

12- Chưa thoát khỏi chỗ ác.

13- Rất nhiều nghi ngờ.

14- Chưa tạo được sự ách yếu của thế gian.

15- Chưa được trí tuệ sáng suốt.

16- Ðối với người này không thể làm. Nhưng đối với người kia có thể làm.

17- Cái không nên làm thì đừng làm.

18- Vì cái không làm nên cũng không có tốt xấu.

19- Ðã làm rồi thì không bao giờ quên.

20- Chỉ tự hành hữu, chỉ tự hành tùy, chỉ tự hành bổn, chỉ tự hành quy mà thôi. Nếu người tự làm thiện hay ác sẽ thọ lấy quả báo. Người trong thế gian này nên theo đó mà lo sợ cho thân mình.

Theo hai chục nhân duyên này, ý ác thì lại bị ác, ý lo sọ thì bị lo sợ, ý viễn ly thì được viễn ly.

Có hai chục chủng hạnh, ý phải sớm đình chỉ. Những gì là hai mươi?:

1- Niệm ý tưởng, ý liền được đình chỉ nhanh.

2- Trong ý, biết ý đình chỉ nhanh.

3- Ý được nhất tâm, đình chỉ nhanh.

4- Chánh tưởng, biết ý đình chỉ nhanh.

5- Chánh chỉ tướng, ý đình chỉ nhanh.

6- Tùng chánh khởi, tưởng đình chỉ nhanh.

7- Nhiếp tưởng ý đình chỉ nhanh.

8- Trợ tưởng ý đình chỉ nhanh.

9- Thủ tưởng ý đình chỉ nhanh.

10- Hành bổn ý chỉ, ý đình chỉ nhanh.

11- Bổn đoạn ý, ý đình chỉ nhanh.

12- Lìa bất khả hành, ý đình chỉ nhanh.

13- Bốn thần túc, ý đình chỉ nhanh.

14- Ðương cận hành xử, ý đình chỉ nhanh.

15- Phải có ý theo học đình chỉ nhanh.

16- Phải đọc tụng có ý hiểu rõ đình chỉ nhanh.

17- Phải có ý, ý bị thương đình chỉ nhanh.

18- Tùy hỷ trong nhiều phương pháp, ý đình chỉ nhanh.

19- Phải có ý biết sự đình chỉ nhanh.

20- Phải hành ý này đình chỉ nhanh.

Chánh thân như vậy, hiền giả dạy đệ tử có mười một điều ngăn cấm cần phải biết. Những gì là mười một?

1- Tụ hội.

2- Ăn nhiều.

3- Ða sự.

4- Nói nhiều.

5- Ngủ nhiều.

6- Thích đi dạo.

7- Thích ở chung.

8- Làm cho thân khoái lạc.

9- Khinh khi.

10- Tham dâm.

11- Không thích cùng ở trong xứ sở.

Những việc làm như vậy chưa đoạn thì nay phải đoạn.

Lại có mười điều phải luôn học. Những gì là mười?

1- Phải luôn luôn định ý.

2- Phải luôn luôn định chỉ.

3- Luôn luôn định khởi.

4- Luôn luôn đình chỉ.

5- Luôn luôn ngăn chận.

6- Luôn luôn phòng hộ.

7- Luôn luôn trở về gốc.

8- Luôn luôn phòng hộ ngăn chận.

9- Luôn luôn dùng phương tiện.

10- Luôn luôn thu nhập.

Người luôn luôn nhập đạo như vậy, phải dạy đệ tử như vậy.

Có mười ba đức. Những gì là mười ba?

1- Ðã niệm đức Như Lai liền được hỷ tín, nhờ đó sanh ra hỷ.

2- Ðối với pháp cũng vậy.

3- Ðối với học giả cũng vậy.

4- Ðối với việc trì giới của mình cũng vậy.

5- Ðối với sự trì giới của người khác cũng vậy.

6- Ðối với việc tự thân chứng đắc như vậy.

7- Ðối với sự chứng đắc cũng vậy.

8- Ðối với tự thân thí cũng vậy.

9- Ðối với người khác thí cũng vậy.

10- Vì đạo mà trừ nhiều khổ.

11- Vì thế gian nói kinh nhiều khiến cho họ được tư duy.

12- Bỏ vô số hành động ác.

13- Làm vô số thiện pháp khiến cho sanh ra sự hoan hỷ, đã có tín tâm có thể sanh ra những sự vui mừng.

Như vậy, hãy dạy cho đệ tử như vậy.

Hãy nên nương tựa vào bốn pháp hạnh, khiến cho năm pháp được tròn đầy. Những gì là nương tựa vào bốn pháp?

1- Nương vào pháp.

2- Nương vào dục.

3- Nương vào cánh tấn.

4- Nương vào sự ngồi riêng một mình, chớ đắm trước vào các dục khác.

Những gì là năm pháp tròn đầy có ích cho đạo?

1- Hỷ. 2- Ái. 3- Y. 4- Lạc. 5- Ðịnh.

Hãy dạy đệ tử vui thích thực hành như vậy.

Hãy diệt trừ tám thứ ghẻ lở, những gì là tám?

1- Ghẻ lở dục.

2- Ghẻ lở sân hận.

3- Ghẻ lở ngu si.

4- Ghẻ lở kiêu mạn.

5- Ghẻ lở Ái.

6- Ghẻ lở si mê.

7- Ghẻ lở lợi dưỡng, cung kính, danh tiếng.

8- Ghẻ lở vì nghi nên không hiểu biết.

Hành giả đối với tám thứ ghẻ lở này có thể làm cho biến mất, làm cho tiêu diệt, thì liền được vượt qua.

Có mười pháp vô học. Những gì là mười?

1- Vô học trực kiến.

2- Trực trị.

3- Trực thanh.

4- Trực hành.

5- Trực hữu.

6- Trực phương tiện.

7- Trực niệm.

8- Trực Ðịnh.

9- Trực độ.

10- Trực huệ.

Do đạt mười pháp vô học này, từ nhân duyên đó liền được chánh tương ưng, liền bỏ năm thứ chánh trực, tương ưng với sáu phần, thủ hộ một pháp, được bốn y chỉ, xả một đế thiên chấp, thoát khỏi lỗi lầm của Tầm và Mích, không có tư duy ô trược, đình chỉ thân hành, đình chỉ thinh hành, đình chỉ tâm hành, đình chỉ sự suy tư của ý, thiện giải thoát huệ, khéo giải quyết tất cả. Ðã làm được như vậy gọi là tối thắng. Này hiền giả, đó là tâm ý thức tối hậu của hiền giả từ xưa đến nay không còn tạo tác, không còn tụ, không còn hội, liền chấm dứt tất cả. Ðó là pháp yếu để đoạn trừ khổ đau.

Ở trên đã nói, hiền giả đã nghe thuyết pháp, phần đầu cũng thiện, phần giữa cũng thiện, phần cuối cũng thiện, có nghĩa có văn, đầy đủ phạm hạnh và nói về cốt yếu của đạo một cách thanh tịnh, gọi là đầy đủ nhân duyên pháp lợi, như trên tôi đã nói thì đã nói xong.

Hiền giả Xá Lợi Phất thuyết như vậy, các Tỳ kheo chí tâm thọ trì, nhớ những lời dạy của hiền giả như vậy.

 

PHẬT NÓI KINH PHỔ PHÁP NGHĨA 

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27151)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21756)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22224)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23599)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20410)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24736)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18974)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24720)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30962)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23971)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27756)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26501)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21293)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23205)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38107)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18798)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18424)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19943)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19027)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23135)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23863)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22780)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22898)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29557)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20629)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18706)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15840)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18834)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19640)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20144)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19944)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18110)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22913)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34155)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16406)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16913)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39205)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26041)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20085)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18831)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24047)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29098)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22897)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30926)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20997)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26839)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20662)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26238)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23315)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19813)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24659)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30006)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20208)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20399)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15135)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15822)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23860)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19833)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant