Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Di Giáo

11 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 15097)
Kinh Di Giáo


KINH THẾ TÔN DI GIÁO


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389

Nguyên tác Hán ngữ [1]

Vào đời Dao Tần, ngài Cưu-ma-la-thập dịch từ Phạn văn ra Hán văn

Thuyền Ấn dịch từ Hán văn ra Việt văn.

 

1. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thời chuyển pháp luân đầu tiên độ cho ông A-nhã Kiều Trần Như, buổi thuyết pháp sau cùng độ cho ông Tu-bạt-đà-la. Những người có nhân duyên đắc độ Ngài đều đã độ xong. Lúc bấy giờ quãng giữa đêm, thanh tịnh không một tiếng động. Phật ở tại rừng Ta La Song Thọ, trước khi sắp nhập Niết bàn, Ngài vì các đệ tử khái lược truyền dạy những pháp cần thiết quan yếu.

2. Này các tỳ kheo! Sau khi ta diệt độ các vị nên trân trọng tôn kính pháp Ba-la-đề-mộc-xoa (giới luật) thì sẽ như người trong đêm tối gặp được ánh sáng, người nghèo khổ được vòng ngọc châu báu. Nên biết rằng: Giới luật là bực đại sư của các vị, giống như ta ở đời không khác gì vậy.

Người trì tịnh giới không được buôn bán mậu dịch, tậu lập ruộng vườn, nhà cửa; nuôi tôi tớ, nuôi các súc vật để cầu lợi. Tất cả các thứ trồng trọt và mọi tài sản, của báu đều nên xả bỏ, như tránh xa hầm lửa. Không được cắt cỏ đốn cây, đào bới đất đai, bào chế các dược phẩm, xem tướng, xem thiên văn, đoán bàn thời vận thịnh suy, xem quẻ, bói toán, những việc ấy đều không nên làm. Phải biết tiết độ để nuôi thân, sống đời sống thanh tịnh. Không được tham dự chính trị, nhận làm sứ mạng giao thông liên lạc. Không được kết bạn với người quyền quí, quen thân với người kiêu căng ngã mạn, các việc ấy đều không nên làm. Phải luôn tự đoan tâm chánh niệm cầu mong được giải thoát. Không được che dấu tội lỗi, bày những điều lạ để lừa bịp mọi người. Đối với tứ sự cúng dường nên lượng biết vừa đủ. Giả sử được cúng dường nhiều, không nên tích trữ.

Đấy là khái lược nêu lên hành tướng của việc trì giới. Điểm căn bản chính yếu của giới luật là Ba-la-đề-mộc-xoa (có nghĩa là biệt giải thoát). Vì thế nên bất kỳ ai tuân tu theo giới luật này sẽ được phát sinh thiền địnhtrí tuệ diệt khổ. Thế nên các tỳ kheo phải kiên trì tịnh giới, chớ để hủy phạm. Nếu ai khéo trì tịnh giới, người ấy chắc chắn thu hoạch được các thiện pháp. Nếu khôngtịnh giới, thì các thiện công đức đều không thể phát sinh. Do đó phải biết rằng, giới là trụ xứ an ổn bực nhất.

3. Các tỳ kheo! Khi đã an trụ vào tịnh giới, phải nên ngăn chế năm căn, chớ để chúng buông lung sa mê với năm dục. Phải như người chăn trâu cầm gậy xem trông trâu, không để nó đi lung tung ăn phạm lúa má của người. Nếu tỳ kheo nào để năm căn buông lung, thì không những chỉ sa vào năm dục, nó sẽ làm cho say mê ngụp lặn chìm đắm vô cùng tận, lúc bấy giờ không còn cách gì ngăn chế nỗi. Cũng như con ngựa dữ, nếu không có yên cương ngăn chế nó, nó sẽ đưa người sa vào vực thẳm. Người bị giặc cướp chỉ mang khổ họa trong một đời, chứ khổ lụy của giặc năm căn gây tai ương đến vô số kiếp, sẽ chịu nhiều thống khổ, không thể không cẩn thận. Thế nên người trí luôn ngăn cấm nó mà không theo, canh giữ nó như canh giữ giặc, không bao giờ để nó buông lung. Người biết giữ gìn cẩn thận như thế, thì giả sử nó có lỡ buông lung chút đỉnh, cũng sẽ bị trừ diệt ngay sau đó không lâu.

Năm căn này, tâm làm chủ chúng nó. Vì thế các vị nên khéo ngăn chế tâm. Vọng tâm đam mê buông lung là điều đáng sợ. Nó còn nguy hiểm hơn rắn độc, ác thú, bọn oán tặc, lửa dữ bừng bừng bốc cháy, các thứ ấy chưa đủ sức sánh ví với tai họa không bến bờ do vọng tâm gây nên. Ví như có người trong tay cầm bát mật mà di chuyển quá mau, nhưng lại chỉ ham nhìn vào bát mật, chứ không nhìn thấy vực thẳm trước mắt. Hay như con voi điên không có câu móc ngăn chế nó. Hoặc như những con vượn, con khỉ khi gặp được rừng cây là mặc sức leo trèo, nhảy nhót, rất khó ngăn cấm được. Phải gấp bế tỏa vọng tâm lại, chớ để nó buông lung. Ai để cho vọng tâm buông lung thì tất cả thiện công đức của người ấy đều bị hủy diệt hết. Ai ngăn chế được vọng tâm này lại một chỗ, thì tất cả công đức đều được viên thành. Thế nên các tỳ kheo phải thường tinh tiến ngăn chế điều phục vọng tâm của các ngươi.

4. Các tỳ kheo! Khi thọ lãnh các thức ăn uống, nên xem như sự uống thuốc, đối với món ngon thức dở, chớ sinh lòng thêm bớt, cốt dùng nuôi thân để trừ bịnh đói khát. Hãy như con ong hút hoa, chỉ hút lấy vị hoa, chứ không làm tổn hại đến sắc hương của hoa. Tỳ kheo cũng thế, thọ lãnh sự cúng dường của người, chỉ cần vừa đủ dùng, không được tham cầu nhiều mà làm băng hoại thiện tâm của người. Phải như người trí lượng biết sức con trâu kham nhận chở được bao nhiêu, không cho trâu chở nặng quá sức để nó phải kiệt lực.

5. Các tỳ kheo! Ban ngày nên chuyên tâm siêng tu các thiện pháp, chớ để mất thì giờ. Đầu đêm, cuối đêm cũng chớ biếng nhác, bỏ phế. Giữa đêm thì tụng kinh để tăng ích công đức và tự tiêu trừ các nghiệp chướng. Chớ để việc ngủ nghỉ làm cho cả cuộc đời lãng phí, trôi qua vô ích, không thu hoạch được một sở đắc nào trên bước đường tu hành đạo nghiệp. Nên nhớ lửa vô thường đang thiêu đốt hủy hoại khắp trần gian. Phải sớm cầu mong tiến tu giải thoát, chớ nên ham ngủ. Các thứ giặc phiền não thường rình để giết người, còn hơn lũ oan gia, thế nên đâu có thể say mê ham ngủ không biết tự tỉnh ngộ. Con rắn độc phiền não nằm ngủ ngay trong tâm các người, ví như con rắn hổ mang màu đen đang nằm ngủ ngay trong nhà các ngươi. Phải khẩn cấp dùng câu móc trì giới sớm trừ diệt. Khi rắn độc ra khỏi nhà rồi mới có thể yên ngủ. Rắn độc chưa ra mà cứ ngủ, đấy là người không biết tàm quí. Trong tất cả các thứ phục sức, đức tàm quí là thứ phục sức trang nghiêm quí báu nhất. Đức tàm quí như loại móc sắt đủ sức ngăn cản việc phi pháp của người. Vì thế thường nên giữ đức tàm quí, không được lì lợm vô liêm sĩ. Nếu ai rời bỏ đức tàm quí, thì người ấy bị mất hết tất cả công đức. Người có đức tàm quí là người có các thiện pháp. Nếu ai không có đức tàm quí, kẻ ấy giống như cầm thú không khác gì.

6. Các tỳ kheo! Nếu giả sử có người đến phanh thây của các vị ra từng mảnh, các vị phải trầm tỉnh nhiếp tâm, chớ nên sân hậncẩn thận giữ gìn chớ buông ra lời nói hung dữ. Nếu để tâm khởi lên sân hận là tự ngăn trở đạo nghiệp, mất hết tất cả công đức. Đức nhẫn nhục, hết cả việc trì giớitu khổ hạnh cũng không thể sánh kịp nó. Ai thực hiện được đức nhẫn nhục mới là người có năng lực vĩ đại. Nếu ai không đủ sức hoan hỷ nhẫn nhịn chịu đựng được đối với mọi thứ mạ lỵ ác độc xem như uống nước cam lồ, thì người ấy không được gọi là người trí tuệ nhập đạo. Vì sao? Vì tai hại của sự sân hận phá tan tất cả thiện pháp, làm hủy hoại tất cả danh dự quí báu, đời này và đời sau mọi người không ai ưa nhìn thấy. Nên biết rằng, sân tâm còn nguy hiểm hơn lửa dữ, thường phải đề phòng chớ để nó xâm nhập. Loại giặc cướp công đức không thứ nào hơn sân hận. Người bạch y tiếp nhận các thứ dục vọng, không phải là người hành đạo, họ không có phương pháp tự chế, sân hận còn có thể tha thứ. Người xuất gia là người vô dục, mà còn ôm giữ lòng sân hận là điều quá sức không nên có. Ví như giữa bầu trời quang mây tạnh lại đột nhiên nổi lên sấm chớp là điều không phải vậy.

7. Các tỳ kheo! Nên tự rờ đầu để thức tỉnh xả bỏ các phục sức tốt đẹp, bận áo hoại sắc, cầm bình bát đi khất thực để nuôi thân. Tự thấy đời sống của mình như vậy, nếu còn khởi tâm kiêu mạn thì nên mau trừ diệt đi. Tăng trưởng lòng kiêu mạn, điều ấy còn không phải là việc nên làm của người bạch y thế tục, huống gì người xuất gia nhập đạo, vì chủ đích giải thoát, tự hạ mình xuống, xả bỏ tất cả, sống qua ngày bằng hạnh khất thực ư?

8. Các tỳ kheo! Lòng nịnh bợ cùng với đạo trái nhau. Vì thế quí vị thường nên giữ lòng chân chất, trung trực. Nên biết nịnh bợ chỉ là sự dối trá. Người nhập đạo không nên làm việc đó. Vì thế quí vị phải nên đoan tâm, lấy điều chân chất, trung trực làm căn bản.

9. Các tỳ kheo! Nên biết rằng người đa dục ham cầu tài lợi nhiều, thì càng lụy nhiều khổ não. Người thiểu dục thì không ham cầu, không đa dục, nên không vướng vào tai họa đó. Ấy thế mà sự thiểu dục còn phải thực tập, huống chi sự thiểu dục hay sinh trưởng các thiện hạnhcông đức. Người thiểu dục không cần nịnh bợ ai để chìu lụy ý ai, lại không bị sự đam mê của các căn lôi cuốn. Người có hạnh thiểu dục thì tâm thường an vui thanh thản, không có lo sợ; gặp bất kỳ việc gì đều thừa sức đối phó, không cảm thấy thiếu thốn. Người nào có hạnh thiểu dục, người ấy có Niết bàn. Đấy là hạnh thiểu dục.

10. Các tỳ kheo! Nếu muốn giải thoát các khổ não nên tu quán pháp tri túc. Pháp tri túc là nơi giàu sang, yên ổn và an vui. Người tri túc tuy nằm trên đất vẫn rất an vui. Người không tri túc dù ở trên thiên đường cũng không vừa ý. Người không tri túc tuy giàu mà nghèo. Người tri túc tuy nghèo mà giàu. Người không tri túc thường bị năm dục lôi cuốn, nên người tri túc lấy làm thương xót. Đấy là pháp tri túc.

11. Các tỳ kheo! Nếu mong cầu có được pháp tịch tịnh, vô vian lạc, phải nên rời xa các chốn ồn ào náo nhiệt, riêng ở một mình nơi yên vắng thanh tịnh. Người ở chỗ thanh tịnh được các vị Đế-thích và chư thiên kính trọng. Người tu hành phải rời xa đồ chúng của mình và đồ chúng của người, riêng ở một mình nơi yên vắng thanh tịnh, để tư duy, tu hành trừ diệt nguồn gốc của mọi sự đau khổ. Nếu đam mê các thứ ồn ào huyên náo, thì sẽ bị chúng nhiễu não. Ví như cây đại thọcác loại chim chóc đến tụ họp, tất sẽ vướng tai họa cành lá phải bị khô gãy. Người ràng buộc với thế gian sẽ bị đắm chìm trong muôn ngàn đau khổ. Ví như con voi già bị sa vào bãi lầy, không thể nào tự vượt thoát ra được. Đấy là ý thức thoát ly.

12. Các tỳ kheo! Nếu các vị thường nỗ lực tinh tiến thì không có việc gì khó cả. Vì thế các vị thường phải nỗ lực tinh tiến. Như giòng nước bé nhỏ thường chảy vẫn đủ sức làm xuyên thủng đá. Nếu tâm người tu hành thường biếng nhác bê trễ, chẳng khác gì người kéo cây lấy lửa, khi cây chưa nóng đã dừng kéo, thì dù muốn có lửa vẫn không thể nào có được. Đấy là pháp tinh tiến.

13. Các tỳ kheo! Cần cầu bực thiện tri thức, kiếm tìm người thiện hỗ trợ, điều ấy không bằng đừng để quên mất chánh niệm. Nếu người thường không để quên mất chánh niệm, thì các giặc phiền não không thể nào xâm nhập được. Vì thế các vị thường nên nhiếp chánh niệm tại tâm. Nếu người để mất chánh niệm thì sẽ bị mất các công đức. Nếu ai có năng lực chánh niệm vững mạnh thì người ấy có đi vào trong đám giặc ngũ dục vẫn không thể nào bị nhiễu hại. Như người bận áo giáp vào chốn trận mạc thì không còn bận tâm lo sợ gì. Đấy là pháp yếu không để quên mất chánh niệm.

14. Các tỳ kheo! Nếu người thường nhiếp tâm lại một chỗ, thì tâm an trụ trong định. Tâm an trụ trong định, thì người ấy đủ sức biết rõ các pháp tướng sinh diệt trong thế gian. Vì thế các vị thường nên nỗ lực tinh tiến tu tập các thiền định. Nếu tâm được định thì không bị tán loạn. Ví như người muốn chứa nước, phải khéo đắp các bờ đê. Người tu hành cũng thế, vì giữ nước trí tuệ nên phải khéo tu thiền định, không để cho nó chảy mất. Đấy là pháp thiền định.

15. Các tỳ kheo! Người có trí tuệ thì không bao giờ tham trước, thường biết tự tỉnh thức, cảnh giác không để phạm các lỗi lầm. Người này ở trong giáo pháp của ta chắc chắn được giải thoát. Người không có trí tuệ như thế, đương nhiên không phải là người xuất gia, cũng không phải là người thế tục, không biết gọi là gì. Trí tuệ chân thật là con thuyền vững chắc vượt qua biển khổ sinh già bịnh chết, là ngọn đèn rực sáng trong đêm tối vô minh, là thần dược chữa trị tất cả bịnh khổ, là lưỡi búa sắc bén chặt đứt cây phiền não. Vì thế các vị phải dùng văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ để tự tăng tiến tu tập lợi ích. Người có trí tuệ soi chiếu, dù chỉ có mắt thịt, vẫn là người thấy biết sáng suốt. Đấy là trí tuệ.

16. Các tỳ kheo! Nếu đam mê các thứ đàm thoại hý luận. tâm mình sẽ bị tán loạn, thì dù đang xuất gia nhưng vẫn chưa được giải thoát. Vì thế các tỳ kheo, phải gấp xả bỏ các thứ hý luận loạn tâm. Nếu các vị muốn đạt được nguồn an lạc cứu cánh tịch diệt, tuyệt đối các vị phải khéo diệt bỏ tai họa của các hý luận. Đấy là pháp không hý luận.

17. Các tỳ kheo! Đối với các công đức thường nên nhất tâm tinh tiến tu hành, phải xả bỏ các buông lung biếng nhác như rời xa oán tặc. Đức đại bi Thế Tôn nói chánh pháp lợi ích giải thoát đã hoàn tất cứu cánh, các vị chỉ cần nỗ lực tinh tiến tu hành theo. Hoặc ở trong núi rừng, hoặc ở nơi đồng vắng, hoặc ở dưới gốc cây, hoặc tịnh tu trong thiền thất, phải thường ghi nhớ pháp mình thọ trì, chớ để quên mất. Hãy thường tự nỗ lực tinh tiến tu hành, đừng để chết trong hoang phí, rồi sau sẽ phải hối hận. Ta như vị lương y biết bịnh cho thuốc, người bịnh uống hay không uống, lỗi ấy không do nơi vị lương y. Lại nữa, ta như người khéo chỉ đường, chỉ dẫn con đường tốt cho người, nghe mà không đi theo, lỗi ấy không do nơi người chỉ đường.

18. Các tỳ kheo! Đối với pháp tứ đế, các vị có điều gì nghi ngờ, nên mau kịp hỏi ngay đi, chớ ôm sự hoài nghi mà không cầu giải đáp. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói lên như vậy ba lần, nhưng trong chúng hội không một người nào hỏi cả. Vì sao? Vì toàn thể đại chúng không ai còn nghi ngờ thắc mắc gì nữa. Lúc bấy giờ, tôn giả A-nậu-lâu-đà quan sát tâm niệm toàn thể đại chúng, rồi bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Mặt trăng có thể làm cho nóng lên, mặt trời có thể làm cho lạnh đi, chứ pháp tứ đế của Phật dạy không thể nào đổi khác được. Phật nói khổ đế thì quả thật là khổ, chứ không thể là vui. Tập đế đích thật là nhân, chứ không có nhân nào khác. Diệt đếkhổ diệt vì nhân đã diệt, mà nhân đã diệt thì quả cũng diệt. Đạo đếphương pháp diệt khổ, nên đích thật là chân đạo, chứ không có đạo nào khác. Kính bạch đức Thế Tôn, toàn thể các tỳ kheo đối với pháp tứ đế quyết định không còn điều gì nghi ngờ.

19. Trong chúng hội này, những người mà sự tu hành chưa hoàn tất, thấy Phật diệt độ nên có lòng bi cảm. Những người mới vào đạo, nghe lời Phật dạy liền được hóa độ, ví như ban đêm thấy ánh điện chớp sáng thì thấy ngay đường đi. Còn những vị mà sự tu hành hoàn tất, đã vượt qua biển khổ, thì suy nghĩ rằng, đức Thế Tôn diệt độ sao mau quá vậy!

Tôn giả A-nậu-lâu-đà tuy đã bạch Phật rằng trong chúng hội ai cũng liễu đạt diệu nghĩa của tứ thánh đế, nhưng đức Thế Tôn vẫn muốn cho đại chúng tâm được kiên cố, do lòng đại bi, ngài lại vì đại chúng dạy rằng: Các tỳ kheo chớ ôm lòng bi não, nếu ta sống ở đời một kiếp nữa, thì sự hội hợp nào cũng phải phân ly. Hội hợp mà không phân ly, điều ấy hoàn toàn không bao giờ có. Pháp tự lợi, lợi tha, ta đều đã truyền dạy đầy đủ. Nếu ta có sống lâu hơn cũng không ích gì. Những người có thể hóa độ, dù ở trên cõi trời hoặc ở tại nhân gian, đều đã được hóa độ. Những người chưa thể hóa độ, thì ta cũng đã tạo nhân duyên hóa độ cho họ.

20. Từ nay trở về sau, các đệ tử của ta hãy triển chuyển thực hành theo giáo pháp ấy. Như vậy là pháp thân của Như Lai vĩnh vĩễn thường trú, không bao giờ diệt mất. Thế nên biết rằng, trần gian là vô thường, có hội hợp thì có phân ly, chớ nên ưu não. Thực trạng cuộc đời là như thế thì các vị phải nỗ lực tinh tiến tu hành, cầu mong sớm được giải thoát, dùng ánh sáng trí tuệ để diệt trừ các si ám. Cuộc đời thật là mong manh, không có gì vững chắc. Ta nay được tịch diệt như trừ được ác bịnh. Tấm thân giả danh này chìm đắm trong biển khổ sinh già bịnh chết, đấy là vật tội ác cần phải xả bỏ. Có người trí nào diệt trừ được nó, như giết chết kẻ oán tặc, mà không hoan hỷ?

21. Các tỳ kheo! Thường nên nhất tâm nỗ lực tinh tiến tu hành cái đạo giải thoát. Các pháp động và bất động khắp cả thế gian đều là những hiện tượng vô thường băng hoại, không an ổn. Thôi các tỳ kheo! Quí vị đừng nói thêm gì nữa. Thì giờ gần hết, ta sắp diệt độ. Đấy là những lời giáo huấn cuối cùng của ta.

 

Phật tử Quảng Minh đánh máy từ bản chép tay - 09.11.2013

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27183)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21774)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22239)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23618)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20433)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20057)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21951)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24761)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18998)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24772)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30988)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24000)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27767)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26530)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21335)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23234)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38147)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18807)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19994)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19055)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23183)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23894)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22823)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22934)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29594)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20650)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18718)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15852)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18868)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19695)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20169)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19962)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22959)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34191)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16430)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16929)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26087)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20111)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18865)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24075)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29155)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22907)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30973)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21017)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26870)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26271)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19826)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24693)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30051)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20234)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20416)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15151)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15844)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23916)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19871)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant