Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phật Thuyết Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện

06 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 14905)
Kinh Phật Thuyết Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện

KINH PHẬT THUYẾT DƯỢC SƯ NHƯ LAI BỔN NGUYỆN

Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449, Nguyên tác: [1]

Hán dịch: Ðời Tùy, Tam-tạng Ðạt Ma Cấp Ða,người Thiên Trúc

Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường (Ni viện Diệu Quang - Nha Trang)

Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh,  Thích Tâm Hạnh

--- o0o --- 

BÀI TỰA KINH DƯỢC SƯ

NHƯ LAI BỔN NGUYỆN CÔNG ÐỨC


Kinh Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện Công Ðức là kinh pháp chính yếu đạt đến phước đức tiêu trừ tai nạn. Ngài Mạn Thù dùng năng lực từ bi thỉnh đức Thế Tôn giảng về danh hiệu tôn quý này. Mười hai nguyện rõ ràng, nhơn và hạnh rộng sâu, bảy báu trang nghiêm, chỉ bày rõ về quả đức thuần tịnh. Ghi nhớ và trì niệm danh hiệu thì các khổ được thoát khỏi. Thỉnh cúng dường thì các nguyện đều được viên mãn. Cho đến như người bị bệnh, lẽ đáng phải chết, nhưng cầu nguyện thì được sống. Vua chúa bị tai ương hoạn nạn, trì niệm thì liền được chuyển họa thành phước. Người tin thì tiêu trừ được bùa chú của trăm quái, trừ được chước khéo của chín hoạnh.

Thuở xưa, đời vua Hiếu Võ Ðế, nhà Tống, có Sa-môn Huệ Giản, chùa Lộc Giả, đã từng dịch kinh này và lưu hành ở đời, nhưng do vì giữa tiếng Phạn và Tống văn từ còn lẫn lộn chưa thông suốt, đến nỗi khiến cho những người đọc tụng phần nhiều sanh nghi ngờ. Do đó, sớm học hỏi về sách tiếng Phạm, thường xem kinh điển, gặp được bản kinh này, nghiệm xét được chỗ sai lầm. Năm thứ mười bảy, niên hiệu Khai Hoàng, ban đầu tìm được một bản, còn sợ sai lầm nên chưa dám dịch ngay. Ðến năm thứ mười một, niên hiệu Ðại Nghiệp lại gặp được bản thứ hai, đem so sánh nhau mới tin chắc, bèn cùng với Ngài Tam-tạng Ðạt Ma Cấp Ða và Sa-môn Pháp Hành, Minh Tắc Trường, Thuận Hải.v.v... đời Ðại Tùy, dịch kinh nơi Lâm Viên Quán, ở Ðông-nam kinh đô Lạc Thủy, cùng nhau dịch lại bản kinh này. Xem xét kỹ thấy được cái sai của quyển trước mới sửa chữa cái lỗi của quyển sau, cho nên một lời nói ra khỏi miệng phải tra xét lại ba lần mới thành sách thì việc truyền đạt ý chỉ sâu xa mới không bị sai lầm quá lớn.

Ngày mồng tám tháng mười hai năm đó, xét định lại mới xong, nhưng chỉ được một quyển.

Sở nguyện của kinh này nghĩa lý rất sâu xa, người người được hiểu. Danh hiệu của đức Phật khắp mọi nơi đều được nghe. Mười hai vị Dược-xoa nhớ ơn Phật nên cùng nhau hộ trì quốc độ, bảy ngàn quyến thuộc nương năng lực của kinh này mà làm lợi ích cho muôn dân. Vua được phước lộc đời đời, quần sanh được an vui.

Bài tựa để lại cho đời sau đã ghi rõ như vậy. 

 

 

KINH PHẬT THUYẾT

DƯỢC SƯ NHƯ LAI BỔN NGUYỆN

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Bà-già-bà đi chu du giáo hóa trong nhơn gian, đến nưóc Tỳ-xá-ly, nghỉ lại dưới gốc cây âm nhạc, cùng với đông đủ chúng đại Tỳ kheo tám ngàn người và ba vạn sáu ngàn Bồ-tát; các quốc vương, đại thần, Bà-la-môn, cư sĩ, các trời, rồng, A-tu-la, Kiền-đạt-bà, Ca-lâu-trà, Khẩn-na-la, Ma-hô-la-già.v.v... Trước đại chúng cung kính vây quanh, đức Thế Tôn thuyết pháp.

Bấy giờ Mạn Thù Thất Lợi Pháp vương tử nương oai thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, bày một bên vai, gối phải quỳ sát đất, chấp tay nghiêng mình hướng về đức Bà-già-bà, bạch:

- Bạch đức Thế Tôn! Cúi xin đức Thế Tôn nói rõ về danh hiệuchí nguyện rộng lớn thù thắng của chư Phật đã phát xưa kia, để cho chúng sanh được nghe pháp, nghiệp chướng sẽ tiêu trừ và cũng để hộ trì cho các chúng sanh trong đời vị lai khi chánh pháp đã bị hoại diệt.

Bấy giờ, đức Bà Già Bà khen ngợi đồng tử Mạn Thù Thất Lợi:

- Lành thay! Lành thay! Mạn Thù Thất Lợi đại từ bi, phát vô lượng thương xót nên cầu thỉnh Ta nói, vì muốn lợi ích cho chúng sanh bị vô số nghiệp chướng ràng buộc và cũng vì muốn lợi ích an vui cho chư thiênloài người. Này Mạn Thù Thất Lợi! Thầy hãy lắng nghe và ghi nhớ kỹ những điều Ta nói.

Khi ấy, đồng tử Mạn Thù Thất Lợi ưa thích được nghe lời Phật dạy nên bạch:

- Dạ vâng, kính bạch Thế Tôn, con xin ưa thích được nghe.

Phật bảo Mạn Thù Thất Lợïi:

- Phương Ðông, cách cõi Phật này ngoài mười hằng hà sa các cõi Phậtthế giới tên là Tịnh Lưu Ly, cõi đó có Phật hiệuDược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.

Này Mạn Thù Thất Lợïi! Bổn hạnh của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia khi còn tu hạnh Bồ-tát có phát mười hai nguyện lớn là:

- Nguyện lớn thứ nhất: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề, thân Ta có hào quang chói sáng rực rỡ, chiếu thấu suốt vô lượng vô số vô biên thế giới với ba mươi hai tướng đại trượng phu và tám mươi vẻ đẹp phụ để trang nghiêm. Thân của Ta như vậy và thân của tất cả chúng sanh cũng được như thân Ta không khác.

- Nguyện lớn thứ hai: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề, thân Ta như ngọc lưu ly, trong ngoài trong sạch không có chút bợn nhơ, ánh sáng chói suốt khắp nơi, oai đức rực rỡ, thân an trú giữa tầng lưới bằng tia sáng trang nghiêm, đẹp đẽ hơn cả mặt trời mặt trăng. Nếu có chúng sanh nào sanh trong thế giới đó, hoặc là sanh trong loài người mà bị tối tăm, không biết phương hướng, đều nhờ vào ánh sáng của Ta mà tùy ý muốn đi đến chỗ nào để làm các công việc gì cũng đều được.

- Nguyện lớn thứ ba: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề, dùng vô lượng vô biên trí tuệ phương tiện làm cho vô lượng cõi chúng sanh thọ dụng không hết, không để cho một người nào bị thiếu thốn.

- Nguyện lớn thứ tư: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề, có các chúng sanh tu theo đạo tà thì Ta làm cho tất cả an trú trong đạo Bồ-đề. Người thực hành theo Thanh văn hay Bích Chi Phật đạo Ta cũng đều lấy Ðại thừa mà chỉ dạy, hướng dẫn họ.

- Nguyện lớn thứ năm: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề, nếu có chúng sanh nào ở trong giáo pháp của Ta tu hành phạm hạnh thì vô lượng vô biên các chúng sanh này đều được giới không thiếu khuyết, đầy đủ Tam tụ tịnh giới, không có người phá giới hướng đến nẻo ác.

- Nguyện lớn thứ sáu: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề, nếu có chúng sanh nào thân hình hèn hạ, các căn không đủ, xấu xí, khờ khạo, tai điếc, mắt đui, tay chân cong queo, tật nguyền, thân thể co quắp, lưng gù, lác hủi, điên cuồng; hoặc có bao nhiêu thứ bệnh khác nữa nơi thân, mà khi đã nghe danh hiệu của Ta rồi thì tất cả đều được các căn đầy đủ, thân phần hoàn mãn.

- Nguyện lớn thứ bảy: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề, nếu có chúng sanh nào bị những chứng bệnh hiểm nghèo không người giúp đỡ, không ai nương cậy, không có chỗ ở, xa lìa tất cả, không có của cải, thuốc men, cũng không có bà con thân thích, nghèo hèn đáng thương; người này nếu được nghe danh hiệu của Ta thì các bệnh hoạn khổ não đều tiêu trừ, cho đến chứng được Vô thượng Bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ tám: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề, nếu có người nữ nào làm vợ người, bị trăm thứ xấu ràng buộc khổ sở, nhàm chán thân nữ, mong xả bỏ thân nữ, mà nghe được danh hiệu Ta thì sẽ chuyển thân người nữ thành thân tướng trượng phu, cho đến cuối cùng chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề.

- Nguyện lớn thứ chín: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề thì khiến cho tất cả chúng sanh thoát khỏi lưới ma. Nếu bị rơi vào bao nhiêu rừng rậm tà kiến, Ta sẽ đặt yên họ ở nơi chánh kiến và thứ tự chỉ dạy cho họ tu tập theo pháp môn Bồ-tát hạnh.

- Nguyện lớn thứ mười: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề, nếu có chúng sanh nào phải bị vô số pháp luật nhà vua xiềng xích, đánh đập, giam cầm có thể chết, hoặc bị nhiều tai nạn buồn rầu bức rức thân tâm đau khổ; những chúng sanh này nhờ năng lực phước đức của Ta nên được thoát khỏi tất cả khổ não.

- Nguyện lớn thứ mười một: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề, nếu có chúng sanh nào bị lửa đói khát thiêu đốt thân tâm, vì tìm cầu miếng ăn phải tạo các nghiệp dữ, thì Ta ở ngay nơi chỗ của những chúng sanh ấy, trước hết dùng các món ăn uống hương vị màu sắc ngon ngọt tốt đẹp giúp cho họ được no đủ, rồi sau đem pháp vị kiến lập cho họ được an lạc hoàn toàn.

Nguyện lớn thứ mười hai: Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề, nếu có chúng sanh nào nghèo không có áo mặc, bị nóng lạnh, muỗi mòng ngày đêm bức xúc thì Ta sẽ giúp cho những chúng sanh đó tất cả những thứ tùy theo chỗ cần dùng, cũng ban cho các thứ y phục màu sắc tốt đẹp như chỗ họ ưa thích và cũng đem tất cả những thứ bảo vật trang nghiêm cùng tràng hoa, hương thơm, trống nhạc, các thứ ca múa tùy theo chỗ các chúng sanh đó cần những gì đều khiến cho được đầy đủ.

Mười hai nguyện lớn này là của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Ứng Chánh Biến Tri phát ra khi hành đạo Bồ-tát.

Lại nữa, này Mạn Thù Thất Lợi! Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai có các nguyện lớn và những công đức trang nghiêm nơi thế giới của Ngài, cho đến nói mãn một kiếp cũng không thể hết. Quốc độ của Phật đó hoàn toàn thanh tịnh, không có người nữ, lìa các dục nhiễm xấu xa, cũng không có tất cả các đường ác và âm thanh khổ. Lưu ly làm đất, thành quách, cung điện, tường thành bao bọc chung quanh. Cổng ngõ hai tầng, cửa lớn cửa sổ đều có mái che. Lầu gác, thành quách, cột trụ, cho đến các lớp lưới bao bọc chung quanh cũng đều làm toàn bằng bảy thứ báu, giống như ở nước Cực Lạc. Cõi Tịnh Lưu Ly đẹp đẽ trang nghiêm cũng y như vậy.

Trong cõi nước đó có hai vị Bồ-tát là: Nhật QuangNguyệt Quang, Chính hai Bồ-tát này là bậc Thượng thủ, đứng đầu trong vô lượng vô số các chúng Bồ-tát. Hai Bồ-tát này giữ gìn kho tàng chánh pháp của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Thế nên, này Mạn Thù Thất Lợi! Những thiện nam, thiện nữ nào có lòng tin vững chắc thì nên nguyện sanh về cõi nước của đức Phật kia.

Bấy giờ đức Thế Tôn lại bảo đồng tử Mạn Thù Thất Lợi:

- Này Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có chúng sanh nào không biết điều lành, điều dữ, nhiều tham lam, không nhàm chán, không biết bố thí và cũng không biết quả báo của sự bố thí, ngu si vô trí, thiếu hẳn đức tin, chứa chất của cải cho nhiều, bo bo gìn giữ, không muốn phân chia cho ai. Những chúng sanh này không có tâm bố thí, cho nên thấy người khác đến xin, họ không vui, như cắt thịt nơi thân mình đem cho người vậy.

Lại có vô lượng chúng sanh tham lẫn, tự mình không dám ăn tiêu, cũng không muốn cho cha mẹ, vợ con ăn tiêu, huống chi là tôi tớ, người làm thuê và những kẻ đến xin khác. Những chúng sanh này khi ở cõi nhơn gian chết, sẽ bị sanh trong đường ngạ quỷ, hoặc đường súc sanh, nhưng do xưa kia ở nhơn gian đã từng được nghe danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, hoặc ở trong đường ngạ quỷ hay đường súc sanhhiện tiền tạm được nghe danh hiệu của Như Lai thì ngay khi nhớ đến liền từ chỗ chết được sanh trở lại trong nhơn đạo, được trí túc mạng, sợ hãi đường ác, không ưa đắm dục lạc, ưa làm việc bố thí, khen ngợi người làm việc bố thí, tất cả của cải đều có thể xả thí hết. Lần lần có thể đem đầu, mắt, chân tay hay máu thịt của thân mình bố thí cho những kẻ đến xin, huống chi là những của cải, vật dụng khác.

Lại nữa, này Mạn Thù Thất Lợïi! Có các chúng sanh tuy phụng thờthọ trì học tập theo giáo pháp của Như Lai, nhưng lại phá giới, phá phạm hạnh, phá hủy chánh kiến, hoặc tuy có kẻ lãnh thọ học tập theo giáo pháp, giữ gìn cấm giới, nhưng lại không cầu đa văn, không hiểu được nghĩa lý sâu xa trong kinh Phật dạy, hoặc lại có kẻ đa văn mà lại có thói tăng thượng mạn, cho mình là phải, người khác là quấy, chê bai chánh pháp, kết bè đảng với ma. Những kẻ ngu si ấy và vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh khác đi theo đường tà, sẽ đọa địa ngục. Những chúng sanh ấy bị trôi lăn trong đường địa ngục không có thời kỳ ra khỏi, nhưng do nhờ nghe được danh hiệu của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai nên ngay trong chốn địa ngục, nhờ oai lực của đức Phật đó nên danh hiệu của đức Như Lai tạm được hiện tiền. Ngay khi ấy liền xả thân mạng, sanh trở lại nhơn đạo, được chánh kiến tinh tấn, tâm thanh tịnh, thuần thiện, có thể bỏ nhà xuất gia học đạo trong giáo pháp của đức Như Lai, dần dần tu hành theo các hạnh Bồ-tát.

Lại nữa, này Mạn Thù Thất Lợïi! Hoặc có những chúng sanh do ganh ghét, đố kỵ, chỉ khen ngợi mình, không khen người khác. Các chúng sanh này do cao ngạo, khen mình chê người nên bị đọa trong ba đường ác, chịu các sự đau đớn khổ sở trải qua vô lượng ngàn năm. Từ nơi đó chết, sanh trong loài súc sanh, làm trâu ngựa, lạc đà, lừa, thường bị roi gậy đánh đập, đói khát dày vò, thân phải chở nặng, đi đường xa. Nếu sanh trong loài người thì thường bị sanh ở chỗ hạ tiện, làm tôi tớ cho kẻ khác, bị người sai khiến. Nếu những người ấy khi ở trong nhơn đạo được nghe danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, do căn lành này được thoát khỏi các khổ, các căn lanh lợi, trí tuệ sáng suốt, học rộng nghe nhiều, thường cầu thiện bổn, được cùng bạn lành kết bạn với nhau, cắt đứt lưới ma, đập nát vỏ vô minh, tát cạn sông phiền não, thoát khỏi tất cả sanh, lão, bệnh, tử, ưu bi khổ não.

Lại nữa, này Mạn Thù Thất Lợi! Có các chúng sanh ưa thích sự ngang trái, chia rẻ, tranh cãi, kiện cáo lẫn nhau, những người này làm cho chúng sanh phát khởi tâm ác; thân khẩu ý luôn tạo các nghiệp ác, vì muốn tổn hại nhau nên mỗi người thường đem những việc không lợi ích làm hại nhau. Hoặc cáo triệu những quỷ thần ở rừng, ở cây, ở núi, ở gò mã và các loại quỷ thần khác, giết hại các loài súc sanh, lấy máu thịt cúng tế cho tất cả quỷ dạ-xoa, la-sát ăn. Hoặc biên chép tên họ và làm hình tượng của người cừu oán, làm các thứ chú thuật độc hại, trù ẻo, rủa nộp, chú làm cho quỷ tử thi đứng dậy, vì muốn chấm dứt mạng sống và phá hoại thân mạng của người đó. Người đó do nhờ nghe được danh hiệu của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai nên các việc ác đó không thể làm hại, mà còn trở lại hỗ trợ nhau phát khởi tâm từ bi, tâm lợi ích, tâm không hiềm giận, ai nấy đều vui vẻ và đều giúp đỡ lẫn nhau.

Lại nữa, này Mạn Thù Thất Lợi! Bốn chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ny, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và các kẻ thiện nam tín nữ khác thọ trì tám phần trai giới, hoặc trong một năm, hoặc là ba tháng, lãnh thọ giữ gìn các giới, do căn lành này, tùy theo sự ưa thích, tùy theo sự mong cầu, hoặc muốn sanh về chỗ của đức Phật A-Di-Ða Như Laithế giới Cực Lạc phương Tây, do được nghe danh hiệu của đức Thế tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai nên khi thân mạng cáo chung có tám Bồ-tát nương hư không đến chỉ cho người đó con đường tắt thì liền ngay nơi thế giới đó được tự nhiên hóa sanh trong những hoa sen đủ màu sắc. Lại nữa, nếu như người này muốn sanh lên cõi trời thì liền được vãng sanh. Căn lành xưa kia vô tận nên không còn sanh trở lại trong các nẻo ác khác. Mạng sống ở trên cõi đời chấm dứt, sẽ sanh trở lại trong nhơn gian làm bậc Chuyển Luân Vương, tự tại trong bốn châu, thành tựu cho vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh khác nơi mười thiện nghiệp đạo. Hoặc lại sanh trong dòng họ lớn Sát-đế-lợi, Bà-la-môn hay cư sĩ đại gia, vàng bạc lụa là tràn đầy kho lẫm. Hình dáng đầy đủ, oai đức đầy đủ, quyến thuộc đầy đủ, dõng mãnh nhiều sức lực như đại lực sĩ. Nếu có người nữ nào nghe nói đến danh hiệu của đức Như Lai này, chí tâm thọ trì thì người này về sau vĩnh viễn lìa hẳn thân nữ.

Bấy giờ đồng tử Mạn Thù Thất Lợi bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn, con ở thời gian sau đem danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở chỗ có thiện nam tử thiện nữ nhơn có lòng tin sẽ bằng vô số phương tiện truyền bá rộng rãi cho họ nghe. Cho đến trong giấc ngủ cũng đem danh hiệu Phật thức tỉnh bên tai họ. Nếu có người nào thọ trì kinh này, đọc tụng giảng thuyết, hoặc phân tích, chỉ dạy cho người khác, hoặc tự mình biên chép, hay bảo người khác biên chép, hoặc lấy quyển kinh đựng trong đãy dệt bằng hàng ngũ sắc rồi rưới nước, quét dọn một nơi sạch sẽ để đặt quyển kinh này lên, đem các thứ bông hoa thơm, các thứ hương đốt, hương xoa, tràng phan, cờ báu, lọng báu để cúng dường. Bấy giờ có bốn vị Ðại Thiên Vương cùng với quyến thuộc của họ và trăm ngàn vạn ức các chư thiên khác đều đến chỗ đó cúng dường. Hoặc nơi chỗ quyển kinh này đang lưu hành, hoặc chỗ có người thọ trì đọc tụng kinh này cũng đều được nghe danh hiệu và nguyện lớn thù thắng của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai đã phát trướùc kia. Nên biết chỗ đó không còn bị nạn chết oan, cũng không còn bị những ác quỷ bắt giữ, đoạt lấy hồn phách. Giả sử có bị đoạt cũng được hoàn lại như cũ.

Phật dạy:

- Ðúng như vậy! Ðúng như vậy! Mạn Thù Thất Lợi! Ðúng như lời thầy nói. Này Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có tịnh tín thiện nam thiện nữ nào hoặc muốn cúng dường đức Như Lai kia thì người này nên tạo lập hình tượng của đức Như Lai, bảy ngày bảy đêm thọ trì tám phần trai giới, ăn chay, ở chỗ thanh tịnh, dâng các thứ hoa, đốt các thứ hương, dùng các thứ tơ lụa, các thứ cờ lọng để trang nghiêm chỗ đó. Tắm gội sạch sẽ, mặc y phục mới sạch đẹp, nên phát khởi tâm không cấu bẩn, không giận dữ, ghen ghét mà nên phát khởi tâm làm lợi ích, tâm từ bi hỷ xả bình đẳng đối với tất cả chúng sanh. Ðánh trống nhạc, ca hát, tán thán, đi nhiễu quanh bên phải tượng Phật. Nên nghĩ nhớ nguyện lớn của đức Như Lai trước kia và giải thích kinh này thì như sự nhớ nghĩ, như sự nguyện cầu, tất cả sự mong muốn được viên mãn. Cầu sống lâu được sống lâu, cầu phước báo được phước báo, cầu tự tại được tự tại, cầu sinh con trai, con gái, được sinh con trai, con gái.

Hoặc lại có người bỗng thấy điềm chiêm bao xấu, hoặc thấy các tướng xấu, hoặc chim quái đến đậu, hoặc nơi chỗ ở hiện ra trăm điều quái dị... người này nếu có thểâ dùng các thứ của báu cung kính cúng dường đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì tất cả các điềm chiêm bao xấu, các tướng xấu và những việc không tốt lành ấy đều ẩn hết.

Nếu có những sự khủng bố về nạn nước, lửa, gươm đao, thuốc độc, nạn treo lơ lững, voi dữ, sư tử, cọp, sói, gấu, rắn độc, bọ cạp, rít, sên.v.v... với những sự đáng sợ như vậy mà nếu nhớ nghĩ cúng dường đức Như Lai Dược Sư thì được thoát khỏi tất cả. Hoặc nếu bị nước khác xâm lăng nhiễu hại, trộm cướp phản loạn... với những sự đáng sợ như vậy thì cũng nên nghĩ nhớ và cung kính tôn trọng đức Như Lai.

Lại nữa, này Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có thiện nam thiện nữ tín tâm, trọn đời lãnh thọ ba pháp quy y, không phụng thờ các vị trời khác, hoặc thọ trì năm giới, mười giới, hoặc thọ trì 104 giới Bồ-tát, hoặc xuất gia thọ trì 250 giới của Tỳ kheo, hay là thọ trì 500 giới của Tỳ kheo ny, mà đối với các giới đã thọ hủy phạm giới cấm, sợ đọa đường ác, nếu có thể cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì nhất định sẽ không bị quả báo trong ba đường ác. Hoặc có người nữ nào đang khi sinh sản phải chịu sự cực khổ đau đớn, mà nếu có thể xưng niệm danh hiệu, cúng dường đức Thếâ Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia thì mau được thoát khỏi những sự đau khổ ấy và đứa con sanh ra thân thể được đầy đủ, hình tướng đoan nghiêm, ai thấy cũng vui mừng, thông minh lanh lợi, an ổn, ít bệnh, không có phi nhơn cướp đoạt hồn phách.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo ngài Huệ Mạng A-Nan:

- Này A-Nan! Như Ta đã khen ngợi những công đức của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thầy có tin nhận không ? Thầy đối với cảnh giới thậm thâm của chư Phật Như Lai như vậy, phần nhiều có sanh nghi ngờ không ?

Khi ấy, ngài Huệ Mạng A-Nan bạch Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Ðối với pháp Như Lai giảng thuyết, không bao giờ con còn nghi ngờ. Vì sao? - Vì tất cả nghiệp thân khẩu ý của các đức Như Lai đều thanh tịnh.

Kính bạch Thế Tôn! Mặt trời mặt trăngthần thông lớn như vậy, có oai lực lớn như vậy còn có thể rơi xuống, núi chúa Tu Di còn có thể lay động, nhưng những lời của chư Phật nói ra không bao giờ sai khác.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu có những chúng sanh nào tín căn không đầy đủ, nghe nói đến những cảnh giới của chư Phật Như Lai thì suy nghĩ: "Làm sao chỉ niệm danh hiệu của Như Lai kia mà được nhiều công đức như vậy ?" Trong lòng không tin nên trở sanh hủy báng. Những hạng người này suốt đời không được điều lợi ích, sẽ bị đọa lạc trong nẻo khổ.

Phật dạy:

- Này A-Nan! Nếu danh hiệu của đức Như Lai lọt vào lỗ tai của những người ấy, mà những người ấy bị đọa vào nẻo ác, không bao giờ có lẽ đó.

Này A-Nan! Cảnh giới của chư Phật thật là khó tin nhận. Nay thầy tin nhận được thì nên biết đó là nhờ oai lực của Như Lai vậy. Chẳng phải tất cả hàng Thanh văn, Bích Chi Phật Ðịa có thể tin nhận được, chỉ trừ các hàng đại Bồ-tát chỉ còn một đời bổ xứ.

Này A-Nan! Thân người khó được nhưng đối với Tam bảo tín kính tôn trọng cũng khó có thể được. Nghe danh hiệu của đức Như Lai kia lại còn khó hơn đây.

Này A-Nan! Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai tu vô lượng hạnh Bồ-tát, dùng vô lượng phương tiện thiện xảo, phát vô lượng nguyện rộng lớn: Ta hoặc một kiếp hay hơn một kiếp nói về những hạnh nguyện Bồ-tát của Như Lai kia cho đến cùng kiếp, những việc làm và những nguyện lớn thù thắng của Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai xưa kia cũng không thể hết.

Bấy giờ trong chúng có đại Bồ-tát tên là Cứu Thoát, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bày một bên vai, gối phải quỳ sát đất, chấp tay cúi đầu hướng về đức Bà Già Bà bạch:

- Bạch đức Thế Tôn! Nơi đời vị lai sẽ có chúng sanh bị nhiều bệnh nặng, khốn khổ, thân hình gầy ốm, ăn uống không được, miệng cổ khô rang, tướng chết hiện tiền, mắt không nhìn thấy, cha mẹ, bà con, bạn bè quen biết vây quanh khóc lóc, thân thể người bệnh vẫn còn nằm đó mà Diêm ma đã sai người dẫn thần thức để ở trước Diêm ma Pháp vương, sau lưng người này có vị thần câu sanh, tùy theo chỗ người đó đã làm - hoặc tội hoặc phước - tất cả đều biên chép hết và đem dâng lên Diêm ma Pháp vương.

Bấy giờ Diêm ma Pháp vương hỏi người đó tường tận rồi kê tính những việc người đó đã làm, tùy theo lành hay dữ mà phân xử. Nếu người nào có thể vì người bệnh này mà quy y đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lainhư pháp cúng dường thì liền được bình phục. Thần thức của người này được trở lại như cũ. Khi ấy như tỉnh giấc chiêm bao, tự nhớ biết, hoặc trải qua 7 ngày, hoặc 21 ngày, 35 ngày, 49 ngày, thần thức hoàn phục trở lại rồi, tự nhớ biết đầy đủ những nghiệp báo lành dữ. Bởi chính mình chứng biết như vậy cho nên dù phải bị mất mạng cũng không dám tạo những nghiệp ác nữa.

Vậy nên những thiện nam thiện nữlòng tin phải nên cúng dường Như Lai Dược Sư.

Bấy giờ, ngài Huệ Mạng A-Nan hỏi Bồ-tát Cứu Thoát:

- Thưa thiện nam tử! Nên cung kính cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai như thế nào ?

Bồ-tát Cứu Thoát nói:

- Thưa Ðại-đức A-Nan! Nếu có người bệnh nào muốn khỏi bệnh nặng thì quyến thuộc nên vì người bệnh này thọ tám phần trai giới trong bảy ngày bảy đêm, tùy theo khả năng mình nên đem các thức ăn uống và các đồ cần dùng khác cúng dường Tỳ-kheo Tăng, ngày đêm sáu thời lễ bái cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đọc tụng kinh này 49 biến và thắp 49 ngọn đèn. Nên tạo 7 hình tượng của đức Như Lai kia và trước mỗi hình tượng đặt 7 ngọn đèn, mỗi ngọn đèn lớn như bánh xe, đốt sáng luôn trong 49 ngày đêm, đừng cho tắt. Còn cái lọng (thần phan) thì làm bằng hàng ngũ sắc dài 49 thước.

Lại nữa, thưa Ðại-đức A-Nan! Nếu trong dòng Sát-lợi có những vị vua làm lễ quán đảnh, gặp lúc có tai nạn xảy ra, nghĩa là nạn nhân dân bị bệnh dịch, bị nước khác xâm chiếm, bị trong nước phản loạn hay bị nạn tinh tú biến ra nhiều điềm quái dị, nạn nhật thực, nguyệt thực, nạn mưa gió trái mùa hay nạn quá thời tiết không mưa, thì lúc ấy các vị vua dòng Sát-lợi quán đảnh kia phải đem lòng từ bi thương xót tất cả chúng sanh, ân xá cho các tội nhơn bị giam cầm rồi y theo pháp cúng dường đã nói ở trước mà cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Khi vua dòng Sát-lợi quán đảnh do căn lành này và do nhờ sức bổn nguyện thù thắng của đức Thế Tôn Dược Sư lưu Ly Quang Như Lai nên trong nước của vua liền được an ổn, mưa thuận gió hòa, lúa thóc được mùa, quốc độ giàu có. Tất cả chúng sanh trong quốc độ không có bệnh tật, an lạc, được luôn vui vẻ, trong nước cũng không có thần Dạ-xoa, La-sát, Tỳ-xá-xà.v.v... và các quỷ thần bạo ác não loạn chúng sanh. Các tướng ác hoàn toàn không hiện. Vua dòng Sát-lợi quán đảnh kia được sống lâu, mạnh khỏe, không bệnh hoạn, được tự tại và được tăng thêm lợi ích.

Bấy giờ, ngài Huệ Mạng A-Nan hỏi Bồ-tát Cứu Thoát:

- Thưa thiện nam tử! Vì lẽ gì mạng sống đã hết mà còn sống thêm được nữa ?

Bồ-tát Cứu Thoát nói:

- Này Ðại đức A-Nan! Thầy lẽ nào không nghe Như Lai nói về chín thứ chết oan hay sao ? Cho nên dạy dùng thuốc thần chú làm phương tiện: Hoặc có chúng sanh mắc bệnh chẳng phải nặng nhưng không có thầy, không có thuốc và không có người săn sóc, hoặc lại có thầy chữa trị nhưng lại cho uống lầm thuốc nên chết. Ðó là chết oan thứ nhất.

Thứ hai là bị phép vua giết.

Thứ ba là buông lung chơi bời săn bắn, đam mê tửu sắc vô độ, bị các phi nhơn hại thần hồn.

Bốn là bị chết thiêu.

Năm là bị chết đắm.

Sáu là bị vào trong các chỗ thú dữ, sư tử, hổ lang ăn thịt.

Bảy là bị đói khát khốn khổ, không được thức ăn, do đây mà chết.

Tám là bị chết vì thuốc độc, rủa nộp, trù ẻo và bị quỷ tử thi.v.v... làm hại.

Chín là chết vì bị rơi từ trên núi cao xuống.

Ðó gọi là Như Lai lược thuyết có chín thứ chết oan. Ngoài ra còn có vô lượng các thứ chết oan khác.

Bấy giờ ngồi trong đại hội, đại chúng có mười hai vị đại tướng Dược-xoa là: Ðại tướng Cung Tỳ La, đại tướng Phạt Chiết La, đại tướng Mê Súy La, đại tướng An Ðể La, đại tướng An Ðát La, đại tướng Ma Niết La, đại tướng Nhơn Ðà La, đại tướng Ba Di La, đại tướng Ma Hổ La, đại tướng Chơn Ðạt La, đại tướng Chiêu Ðổ La, đại tướng Tỳ Yết La. Mười hai đại tướng Dược xoa này mỗi vị đều có bảy ngàn Dược xoa quyến thuộc, đều đồng cất tiếng bạch đức Thế Tôn:

- Chúng con hôm nay nhờ oai lực của Phật mà được nghe danh hiệu của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai nên không còn sợ hãi trong các đường ác nữa. Nay chúng con đồng một lòng cho đến trọn đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, sẽ gánh vác tất cả chúng sanh, làm các việc lợi ích an vui. Tùy theo những chỗ nào, hoặc làng xóm, thành ấp, tụ lạc, hoặc chốn A-lan-nhã, nếu có truyền bá kinh này, hoặc thọ trì danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, gần gũi cúng dường thì quyến thuộc chúng con sẽ hộ vệ cho người này, làm thoát khỏi tất cả khổ nạn và khiến cho họ có mong cầu việc chi cũng đều được thỏa mãn.

Bấy giờ đức Thế Tôn khen ngợi các đại tướng Dược-xoa:

- Lành thay! Lành thay! Này đại tướng Dược-xoa! Các ông nếu nghĩ đến ân đức của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì nên nghĩ đến việc làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.

Bấy giờ ngài Huệ Mạng A-Nan bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn, kinh này tên là gì ? Và phụng trì như thế nào ?

Phật dạy:

- Này A-Nan! Pháp môn này tên là Ðại Nguyện Thù Thắng, được đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai đã phát đời quá khứ, nên y như vậy mà thọ trì. Cũng gọi là "Mười hai đại tướng Dược-xoa thệ nguyện". Cũng gọi là "Tịnh Nhất Thiết Nghiệp Chướng", nên y như vậy mà thọ trì.

Khi đức Bà Già Bà nói như vậy xong, các đại Bồ-tát, đại Thanh văn, cùng quốc vương, đại thần, Bà-la-môn, cư sĩ và tất cả đại chúng A-tu-la, Kiền-đạt-bà.v.v... nghe Phật dạy đều rất vui mừnghoan hỷ phụng hành.

 

KINH PHẬT THUYẾT DƯỢC SƯ NHƯ LAI BỔN NGUYỆN 

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27187)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21780)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22244)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23622)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20436)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20060)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21954)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24773)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19015)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24788)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31001)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24008)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27781)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26547)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21359)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23243)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38165)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18809)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19999)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19059)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23187)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23903)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22833)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22941)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29602)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20653)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18729)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15854)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18870)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19698)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20172)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19965)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18140)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22979)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34201)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16440)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16940)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39281)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26113)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20119)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18866)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24080)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29163)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22913)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30982)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21025)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26874)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20690)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26275)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23348)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24698)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30053)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20242)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20421)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15162)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15846)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23923)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19874)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant