Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh Đâu Suất

06 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 19425)
Kinh Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh Đâu Suất

KINH QUÁN DI-LẶC BỒ-TÁT
THƯỢNG SANH ĐÂU-SUẤT

Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452, Nguyên tác: [1]

Hán dịch: Cư sĩ Thư Cừ Kinh Thanh đời Tống

Việt dịch: Tại gia Bồ-Tát giới Ưu-bà-tắc Nguyên Thuận

--- o0o --- 

 

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc trong thành Xá-vệ. Bấy giờ là lúc đầu đêm, toàn thân của Thế Tôn phóng ra hào quang sắc vàng. Ánh hào quang đó nhiễu quanh khắp vườn Kỳ-đà bảy vòng và cũng chiếu sáng đến nhà của Trưởng giả Tu-đạt với màu vàng kim. Lại có vầng hào quang sắc vàng giống như đám mây lan tỏa khắp cả thành Xá-vệ. Mọi nơi đều mưa xuống liên hoa kim sắc. Trong ánh sáng ấy có vô lượng trăm ngàn chư đại hóa Phật và đều xướng rằng:

"Nay trong đây có 1.000 vị Bồ-Tát. Vị thành Phật đầu tiên hiệu là Câu-lưu-tôn. Vị thành Phật cuối cùng tên là Lâu-chí."

Khi nói lời ấy xong,

- Tôn giả A-nhã Kiều-trần-như liền từ trong thiền xuất định và cùng với quyến thuộc, cả thảy là 250 vị.

- Tôn giả Ma-ha Ca-diếp và cùng với quyến thuộc, cả thảy là 250 vị.

- Tôn giả Đại Mục-kiền-liên và cùng với quyến thuộc, cả thảy là 250 vị.

- Tôn giả Xá-lợi-phất và cùng với quyến thuộc, cả thảy là 250 vị.

- Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề và cùng với quyến thuộc, cả thảy là 1.000 vị Tỳ-kheo-ni.

- Trưởng giả Tu-đạt và cùng với quyến thuộc, cả thảy là 3.000 vị Ưu-bà-tắc.

- Tỳ-xá-khư Mẫu và cùng với quyến thuộc, cả thảy là 2.000 vị Ưu-bà-di.

Lại có chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, như là:

 

- 16 vị Chánh sĩ, gồm có Hiền Hộ và cùng với quyến thuộc.

- 500 vị Bồ-Tát, gồm có Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử và cùng với quyến thuộc.

 

Khi hàng trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà và tất cả đại chúng thấy ánh quang minh của Phật, họ liền đều đến vân tập.

 

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn hiện tướng lưỡi rộng dài và phóng ra 1.000 tia sáng. Mỗi tia sáng đều có 1.000 màu sắc. Trong mỗi màu sắc có vô lượng hóa Phật. Chư hóa Phật ấy, dị khẩu đồng âm, đều thuyết về các Pháp tổng trì thanh tịnh sâu xabất khả tư nghị của chư đại Bồ-Tát, như là:

 

- A-nan-đà-mục-khư Đà-la-ni,

- Không Tuệ Đà-la-ni,

- Vô Ngại Tánh Đà-la-ni,

- và Đại Giải Thoát Vô Tướng Đà-la-ni.

 

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn dùng một âm thanh để thuyết 100 ức môn đà-la-ni. Khi tuyên thuyết những đà-la-ni đó xong, lúc ấy trong chúng hội có một vị Bồ-Tát tên là Di-lặc. Khi vừa nghe Đức Phật nói, ngài lập tức đắc 100 vạn ức môn đà-la-ni, rồi liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phụcchắp tay đứng ở trước Phật.

 

Lúc đó ngài Ưu-ba-ly cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu đảnh lễbạch Phật rằng:

 

"Bạch Thế Tôn! Lúc xưa Thế Tôn trong Luật tạng cùng các Kinh tạng nói rằng, Vô Năng Thắng kế đến sẽ làm Phật, nhưng Vô Năng Thắng vẫn còn là thân phàm phu và chưa đoạn hết các lậu. Người này khi mạng chung sẽ sanh về đâu? Vị ấy hiện tại tuy đã xuất gia nhưng không tu thiền định và cũng chẳng đoạn phiền não. Tuy nhiên lại được Phật thọ ký, rằng vị này chắc chắn sẽ thành Phật. Vậy ông ấy khi mạng chung sẽ sanh vào cõi nước nào?"

 

Phật bảo ngài Ưu-ba-ly:

 

"Lắng nghe, lắng nghe và khéo tư duy! Nay Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, ở giữa đại chúng nói về sự thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Di-lặc Bồ-Tát Ma-ha-tát.

 

Từ đây cho đến 12 năm sau thì ông ấy mạng chungnhất định sẽ vãng sanh lên cung trời Đâu-suất. Lúc bấy giờ trên trời Đâu-suất có 500 vạn ức thiên tửai nấy đều tu Bố Thí Ba-la-mật sâu xa. Vì để cúng dường cho bậc Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ-Tát, họ dùng phước lực của trời mà tạo lập cung điện. Mỗi vị đều cởi mũ báu chiên đàn ma-ni trên đầu, quỳ hai gối, chắp tay và sẽ phát lời thệ nguyện như vầy:

 

'Nay con đem những châu báu vô giá cùng mũ trời để cúng dường cho Di-lặc Bồ-Tát Ma-ha-tát. Vị này chẳng bao lâu nữa trong tương lai sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nếu con sẽ được thọ ký Bồ-đề ở nơi thế giới trang nghiêm của Đức Phật kia, xin hãy khiến mũ báu của con hóa thành phẩm vật cúng dường.'

 

Những vị thiên tử khác như thế, mỗi vị đều quỳ hai gối và phát hoằng thệ nguyện cũng lại như vậy. Khi các thiên tử phát nguyện xong, những mũ báu đó hóa thành 500 vạn ức cung điện báu.

 

- Mỗi cung điện báu đều có bảy lớp tường.

- Mỗi lớp tường do bảy báu tạo thành.

- Mỗi thứ báu phóng ra 500 ức ánh sáng.

- Trong mỗi ánh sáng có 500 ức hoa sen.

- Mỗi hoa sen hóa thành 500 ức hàng cây bảy báu.

- Mỗi lá cây có 500 ức màu sắc báu.

- Mỗi màu sắc báu có 500 ức ánh sáng vàng diêm-phù-đàn.

- Trong mỗi ánh sáng vàng diêm-phù-đàn hiện ra 500 ức thiên bảo nữ.

- Mỗi bảo nữ đứng ở dưới cây, tay cầm 100 ức châu báu, vô số chuỗi anh lạc và khảy ra âm nhạc vi diệu.

- Khi ấy trong âm nhạc diễn nói hạnh Bất Thối Chuyển Địa Pháp Luân.

 

Lại nữa, cây báu sanh ra quả và chúng có màu sắc như pha lê. Hết thảy mọi màu sắc đều tụ vào trong màu sắc pha lê.

 

Các ánh sáng đó xoay vòng uyển chuyển bên phải và vang ra những âm thanh. Những âm thanh ấy diễn nói Pháp đại từ đại bi.

 

Mỗi lớp tường nơi đó cao 62 do-tuần và dày 14 do-tuần. Trên tường ấy có 500 ức vua rồng bay lượn xung quanh và phun ra 500 ức hàng cây bảy báu để trang nghiêm nơi đó.

 

Ngay khi ấy, tự nhiên có gió thổi lay động những hàng cây và làm chúng rung chạm lẫn nhau, diễn nói: khổ, không, vô thường, vô ngã và các Pháp Ba-la-mật.

 

Lúc bấy giờ ở trên cung trời này sẽ có một vị đại thần tên là Lao-độ-bạt-đề, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ khắp mười phương chư Phật và phát hoằng thệ nguyện rằng:

 

'Nếu phước đức của con có thể tạo Thiện Pháp Đường cho Đức Di-lặc Bồ-Tát, thì hãy khiến trên trán con, tự nhiên sẽ có châu báu vọt ra.'

 

Sau khi phát nguyện xong, trên trán của vị đại thần này tự nhiên vọt ra 500 ức châu báu với sắc màu lưu lypha lê. Hết thảy mọi màu sắc đều có đầy đủ và chúng như ngọc ma-ni sắc tía xanh biếc, trong ngoài ánh triệt xuyên suốt. Ánh sáng của ngọc ma-ni này xoay vòng quanh trong hư khônghóa thành cung điện báu vi diệu, cao 49 tầng.

 

Trên mỗi lan can ở cung điện này đều do 10.000 ức ngọc báu ma-ni từ cõi Phạm Thiên hợp thành. Ở giữa các lan can tự nhiên hóa sanh chín ức thiên tử và 500 ức thiên nữ. Trong tay của mỗi thiên tử hóa sanh ra vô lượng vạn ức hoa sen bảy báu. Trên mỗi hoa senvô lượng ức ánh sáng. Trong ánh sáng ấy có đầy đủ các loại nhạc khí. Âm nhạc cõi trời như thế đều không cần khảy mà tự vang.

 

Khi tiếng nhạc trỗi lên thì các thiên nữ tự nhiên cầm những nhạc khí đua nhau ca múa. Tiếng ca vịnh của họ diễn nói Thập ThiệnTứ Hoằng Thệ Nguyện. Khi chư thiên nghe âm thanh đó thì đều phát tâm Vô Thượng Đạo.

 

Lại có các khu vườn với những kênh nước lưu ly tám màu. Mỗi kênh có 500 ức châu báu cộng hợp thành. Trong mỗi kênh có nước tám mùi vị và đầy đủ tám màu sắc.

 

Nước ấy phun lên quanh trên các trụ. Khi chảy ra bốn cửa ở ngoài thì hóa sanh thành bốn bông hoa. Ở trong nước hiện ra những bông hoa và chảy đi như dòng hoa báu đang trôi.

 

Trên mỗi bông hoa có 24 thiên nữ với nhan sắc mỹ miều và thân tướng trang nghiêm như chư Bồ-Tát. Trong tay họ tự nhiên biến hóa ra 500 ức bình báu. Trong mỗi bình báu có nước cam lộ cõi trời và chúng tự nhiên đầy ắp ở trong ấy. Vai trái của họ mang đeo vô lượng chuỗi anh lạc. Còn vai bên phải để lên vô lượng nhạc khí. Như mây lơ lửng giữa bầu trời, họ từ trong nước vọt ra và tán thán Lục Độ Ba-la-mật của Bồ-Tát. Nếu ai vãng sanh lên trời Đâu-suất thì tự nhiên sẽ được các thiên nữ đó đón chờ.

 

Lại có tòa sư tử lớn bằng bảy báu với độ cao bốn do-tuần và được trang nghiêm bằng vàng diêm-phù-đàn cùng với vô lượng chúng bảo.

 

Ở bốn góc tòa nở ra bốn hoa sen. Mỗi hoa sen do hàng trăm thứ báu tạo thành. Mỗi báu phóng ra 100 ức ánh sáng. Ánh sáng vi diệu đó hóa làm 500 ức chúng bảo hoa khác nhau để trang nghiêm cho màn che báu.

 

Khi ấy có trăm ngàn Phạm Vươngmười phương, mỗi vị đều cầm theo một thứ diệu bảo từ cõi Phạm Thiên để kết làm chuông báu và treo ở trên màn che báu. Còn các tiểu Phạm Vương thì cầm những châu báu cõi trời để kết làm lưới giăng và trùm khắp ở trên màn che.

 

Lúc bấy giờ có trăm ngàn vô số thiên tửthiên nữ, ai nấy cũng mang theo hoa sen báu để rải lên tòa sư tử. Các hoa sen đó đều tự nhiên hiện ra 500 ức bảo nữ. Tay họ cầm cây phất trần màu trắng và đứng hầu ở trong màn che.

 

Ở bốn phía góc của cung điện có bốn bảo trụ. Mỗi bảo trụ có trăm ngàn lầu các và kết giăng quấn quanh bằng ngọc báu ma-ni từ cõi Phạm Thiên. Lúc đó ở trong những lầu các ấy có trăm ngàn thiên nữ xinh đẹp vô song, tay họ cầm nhạc khí và trỗi lên những thanh âm, diễn nói: khổ, không, vô thường, vô ngã, và các Pháp Ba-la-mật.

 

thiên cung này có vô lượng trăm vạn ức màu sắc báu. Mỗi thiên nữ cũng có đồng những màu sắc báu như thế. Lúc bấy giờ có vô lượng chư thiênmười phương, khi mạng chung, họ đều nguyện sẽ vãng sanh về cung trời Đâu-suất.

 

Khi ấy ở cung trời Đâu-suất sẽ có năm vị đại thần.

 

Vị đại thần thứ nhất tên là Bảo Tràng. Thân tuôn ra thất bảo và rải xuống trong tường của cung điện. Mỗi bảo châu hóa thành vô lượng nhạc khí treo lơ lửng giữa hư không và chúng không cần khảy mà tự phát ra vô lượng âm thanh để làm vui lòng thỏa ý chúng sanh.

 

Vị đại thần thứ nhì tên là Hoa Đức. Thân tuôn ra các đóa hoa và rơi trùm khắp tường của cung điện. Sau đó chúng hóa thành lọng hoa. Mỗi lọng hoa có trăm ngàn tràng phan đi trước dẫn đường.

 

Vị đại thần thứ ba tên là Hương Âm. Trong những lỗ chân lông nơi thân toát ra hương thơm vi diệu của chiên đàn hải ngạn. Hương thơm ấy như đám mây, chúng tạo thành trăm màu sắc báu và bay lượn quanh cung điện bảy vòng.

 

Vị đại thần thứ tư tên là Hỷ Lạc. Thân tuôn ra như ý bảo châu. Mỗi bảo châu tự nhiên trụ ở trên tràng phan và nói rõ vô lượng Pháp: Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng, thuyết Ngũ Giới cùng các Pháp Ba-la-mật và vô lượng Pháp lành để làm lợi ích, khuyến tấn và hỗ trợ Bồ-đề tâm của người tu hành.

 

Vị đại thần thứ năm tên là Chánh Âm Thanh. Những lỗ chân lông nơi thân tuôn ra các giọt nước. Trên mỗi giọt nước có 500 ức hoa. Trên mỗi hoa có 25 ngọc nữ. Những lỗ chân lông trên thân của mỗi ngọc nữ phát ra hết thảy mọi âm thanh và chúng hay hơn cả âm nhạc trong cung hoàng hậu của thiên ma."

 

Phật bảo ngài Ưu-ba-ly:

 

"Trên trời Đâu-suất này là nơi phước đức thù thắng vi diệu, quả báo ứng hiện do nhân tu Thập Thiện. Dù cho Ta trụ thế suốt một tiểu kiếp để rộng nói về quả báo ứng hiện của Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ-Tát và những người tu Mười Điều Lành thì cũng không thể nói hết. Nay Ta vì các ông nên giảng giải sơ lược như thế."

 

Phật bảo ngài Ưu-ba-ly:

 

"Nếu có Tỳ-kheo cùng hết thảy đại chúng nào mà không nhàm chán sanh tử, muốn sanh lên cõi trời ấy, tâm yêu kính Bồ-đề vô thượng, và muốn làm đệ tử của Đức Di-lặc, thời họ hãy khởi quán tưởng này.

 

Người khởi quán tưởng này phải giữ Năm Giới, tu Bát Quan Trai, hoặc thọ giới Cụ Túc. Thân tâm họ tinh tấn, không cầu mong đoạn trừ kết sử, tu hành Mười Pháp Lành, và lúc nào cũng tư duy về những việc an vui vi diệu bậc nhất ở trên trời Đâu-suất.

 

Người khởi quán tưởng này gọi là chánh quán. Nếu ai quán khác đi gọi là tà quán."

 

Lúc bấy giờ ngài Ưu-ba-ly liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, cúi đầu đảnh lễbạch Phật rằng:

 

"Bạch Thế Tôn! Trên trời Đâu-suất có những sự an vui vi diệu cực kỳ như thế. Khi nào thì vị Đại sĩ đó sẽ viên tịch ở Diêm-phù-đề và sanh lên cõi trời kia?"

 

Phật bảo ngài Ưu-ba-ly:

 

"Lúc xưa Di-lặc sanh ra trong nhà của dòng đại Bà-la-môn Ba-bà-lợi, tại thôn Kiếp-ba-lợi ở nước Ba-la-nại.

 

12 năm sau vào ngày rằm tháng Hai âm lịch, ông ấy sẽ trở về nơi sinh quán, rồi ngồi kiết già như nhập diệt định. Thân sẽ có màu vàng tím, tỏa ánh sáng rực rỡ, đỏ ửng như trăm ngàn mặt trời và chiếu lên tận trời Đâu-suất. Thân xá-lợi của ông ấy như pho tượng vàng đúc, không lay bất động. Trong vầng hào quang nơi thân có chữ Thủ Lăng Nghiêm Tam-muội và Bát-nhã Ba-la-mật sáng rõ. Khi ấy chúng trời người sẽ liền tìm đến và xây bảo tháp vi diệu để cúng dường xá-lợi.

 

Bấy giờ ở trời Đâu-suất, Bồ-Tát bỗng hốt nhiên hóa sanh, ngồi kiết già trên liên hoa của tòa sư tử trong đài bảy báu tại cung điện Ma-ni. Thân màu vàng như diêm-phù-đàn, cao 16 do-tuần. 32 tướng tốt với 80 vẻ đẹp thảy đều có đầy đủ.

 

Búi tóc trên đảnh nhục kế có màu xanh biếc lưu ly. Mũ trời được trang nghiêm bằng ngọc năng thắng ma-ni và trăm ngàn vạn ức ngọc xích bảo. Mũ trời ấy có hàng trăm vạn ức màu sắc. Trong mỗi màu sắc có vô lượng trăm ngàn hóa Phật và các hóa Bồ-Tát để làm thị giả.

 

Lại có chư đại Bồ-Tát từ phương khác. Các ngài biến hiện 18 loại thần túctùy ý tự tại ở trong mũ trời. Ở giữa đôi chân mày Đức Di-lặc có tướng ánh sáng của lông mày trắng và phóng ra tia sáng trăm màu sắc báu. Mỗi tướng trong 32 tướng tốt của Đức Di-lặc có 500 ức màu sắc báu. Mỗi vẻ đẹp cũng có 500 ức màu sắc báu. Mỗi tướng hảo phóng ra 84.000 đám mây sáng rực rỡ.

 

Đức Bồ-Tát cùng với các thiên tử đều ngồi trên tòa hoa sen. Ngày đêm sáu thời, ngài sẽ luôn giảng về hạnh Bất Thối Chuyển Địa Pháp Luân. Trải qua một thời gian, ngài giáo hóa thành tựu 500 ức thiên tử và khiến họ không còn thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

Và như thế, Di-lặc sẽ ở trời Đâu-suất, ngày đêm thường nói Pháp ấy để độ các thiên tử. Tính theo số năm ở Diêm-phù-đề là 56 ức vạn năm. Cho đến lúc ấy, ngài mới hạ sanh ở Diêm-phù-đề như Ta đã nói trong Kinh Di-lặc Hạ Sanh."

 

Phật bảo ngài Ưu-ba-ly:

 

"Đây là nhân duyên của Di-lặc Bồ-Tát, tịch ở Diêm-phù-đề và sanh về trời Đâu-suất.

 

Sau khi Phật diệt độ, trong chúng đệ tử của Ta, nếu có ai tinh tấn, tu mọi công đứcuy nghi không khiếm khuyết, họ quét dọn chùa tháp sạch sẽ, hoặc dùng các loại hương thơm và hoa quý để cúng dường, tu hành các loại tam-muội, thâm nhập chánh thọ, và đọc tụng Kinh điển, thì những người như thế cần phải chí tâm. Tuy chưa đoạn trừ kết sử nhưng sẽ đắc Lục Thông. Họ phải nên nhất tâm tưởng nhớ hình tượng của Đức Di-lặc và xưng tụng danh hiệu ngài.

 

Những người như vậy, nếu trong một niệm khoảnh mà thọ Bát Quan Trai, tu các nghiệp thanh tịnh, cùng phát thệ nguyện sâu rộng, thời sau khi mạng chung, họ sẽ ví như vị tráng sĩ co duỗi cánh tay, trong khoảnh khắc liền vãng sanh về trời Đâu-suất và ngồi kiết già trên hoa sen. Khi ấy sẽ có trăm ngàn thiên tử trỗi nhạc trời, cầm hoa trời mạn-đà-la và hoa ma-ha mạn-đà-la để rải lên họ, rồi ngợi khen rằng:

 

'Lành thay, lành thay, thiện nam tử! Khi ông ở Diêm-phù-đề đã rộng tu phước nghiệp nên được sanh về đây. Nơi này là trời Đâu-suất-đà. Hiện nay vị thiên chủ ở đây là Đức Di-lặc, ông hãy quy y ngài.'

 

Khi nghe rồi thì hãy liền đảnh lễ. Khi lễ xong thì hãy quán rõ tướng ánh sáng của lông mày trắng ở giữa đôi chân mày của Đức Di-lặc. Lập tức họ sẽ siêu việt 90 ức kiếp nghiệp tội sanh tử. Ngay lúc đó, Đức Bồ-Tát sẽ tùy theo túc thế nhân duyên của họ mà thuyết diệu Pháp, khiến tâm người ấy kiên cố và không còn thối chuyển nơi Vô Thượng Đạo.

 

Các chúng sanh như vậy, nếu ai thanh tịnh được các nghiệp và tu hành Lục Sự Pháp, thì nhất định sẽ sanh lên trời Đâu-suất và gặp Đức Di-lặc. Họ cũng sẽ theo Đức Di-lặc xuống Diêm-phù-đề để nghe Pháp ở hội thứ nhất. Vào đời vị lai, họ sẽ gặp hết thảy chư Phật trong Hiền Kiếp. Trong kiếp Tinh Tú, họ cũng gặp chư Phật Thế Tôn và sẽ ở trước chư Phật được thọ ký Bồ-đề."

 

Phật bảo ngài Ưu-ba-ly:

 

"Sau khi Phật diệt độ, nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, hay ma-hầu-la-già, mà nghe được danh hiệu của Di-lặc Bồ-Tát Ma-ha-tát, khi nghe xong, họ vui mừngcung kính lễ bái. Lúc mạng chung khoảng chừng khảy móng tay, họ liền được vãng sanh như ở trước không khác.

 

Ngay chỉ ai nghe được danh hiệu của Đức Di-lặc mà khi mạng chung cũng không đọa vào chỗ tối tăm hoặc vùng biên địa tà kiến với các luật lệ xấu ác. Họ luôn luôn có chánh kiến, quyến thuộc thành tựu, và không hủy báng Tam Bảo."

 

Phật bảo ngài Ưu-ba-ly:

 

"Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào vi phạm các giới cấm và tạo nhiều nghiệp ác, mà khi nghe danh tự đại bi của Bồ-Tát, rồi cúi đầu đảnh lễ sát đấtthành tâm sám hối, thời những ác nghiệp đó mau được thanh tịnh.

 

Trong đời vị lai, nếu có chúng sanh nào nghe được danh xưng đại bi của Bồ-Tát, rồi tạo lập hình tượng, cúng dường hương hoa, y phục, lọng lụa, tràng phan, lễ bái, nhất tâm tưởng nhớ, thì khi người này mạng chung, họ sẽ được Di-lặc Bồ-Tát phóng hào quang từ tướng ánh sáng nơi lông mày trắng của bậc đại nhân ở giữa đôi chân mày. Còn các vị thiên tử sẽ rải hoa mạn-đà-la để nghênh tiếp họ. Người ấy trong vụt thoáng liền đắc vãng sanh và sẽ gặp Đức Di-lặc. Sau đó, họ cúi đầu cung kính đảnh lễ. Lúc còn chưa kịp ngẩng đầu lên thì họ đã nghe được Pháp và liền đắc bất thối chuyển nơi Vô Thượng Đạo. Vào đời vị lai, họ sẽ gặp Hằng Hà sa số chư Phật Như Lai."

 

Phật bảo ngài Ưu-ba-ly:

 

"Ông hãy lắng nghe! Vào đời vị lai, Di-lặc Bồ-Tát sẽ làm nơi quy y rộng lớn cho chúng sanh. Nếu có ai quy y Di-lặc Bồ-Tát, thời phải biết người này sẽ được bất thối chuyển nơi Vô Thượng Đạo. Khi Di-lặc Bồ-Tát thành bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, thì những người thực hành như vậy, lúc họ thấy ánh hào quang của Phật thời sẽ liền được thọ ký."

 

Phật bảo ngài Ưu-ba-ly:

 

"Sau khi Phật diệt độ, trong bốn chúng đệ tử cùng thiên long quỷ thần, nếu có ai muốn sanh lên trời Đâu-suất thời phải nên khởi quán tưởng này, nhất tâm tư duy về cung trời Đâu-suất và giữ các giới răng của Phật dạy. Từ một ngày cho đến bảy ngày, họ nhớ tưởng và thực hành Thập Thiện, rồi đem công đức ấy hồi hướng và nguyện sanh ở trước Đức Di-lặc.

 

Họ cần phải khởi quán tưởng này! Người khởi quán tưởng này như thấy có một vị thiên nhân hay một hoa sen, nếu trong một niệm khoảnh mà xưng danh hiệu của Đức Di-lặc, thì người đó sẽ diệt trừ 1.200 kiếp nghiệp tội sanh tử. Ngay chỉ nghe danh hiệu của Đức Di-lặc, rồi chắp tay cung kính, thời người này sẽ diệt trừ 50 kiếp nghiệp tội sanh tử. Nếu có ai cung kínhlễ bái Đức Di-lặc, thì sẽ diệt trừ 100 ức kiếp nghiệp tội sanh tử. Giả như họ không được sanh lên trời, nhưng trong đời vị lai ở dưới cây Bồ-đề Long Hoa, người ấy cũng sẽ gặp được Ngài và phát tâm vô thượng."

 

Khi Phật nói lời ấy xong, có vô lượng đại chúng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, họ đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật và ngài Di-lặc, rồi đi nhiễu Đức Phật cùng Di-lặc Bồ-Tát trăm ngàn vòng. Sau đó, những vị chưa đắc Đạo đều phát thệ nguyện rằng:

 

"Chúng con cùng trời, người, và tám bộ chúng, nay ở trước Phật mà thành thật phát thệ nguyện: 'Vào đời vị lai nguyện sẽ gặp Đức Di-lặc và khi xả thân này đều sẽ được sanh lên trời Đâu-suất.' "

 

Đức Thế Tôn thọ ký rằng:

 

"Các ông cùng những chúng sanh tu phước trì giớiđời sau, thảy đều sẽ vãng sanh ở trước Di-lặc Bồ-Tát và sẽ được Di-lặc Bồ-Tát nhiếp thọ."

 

Phật bảo ngài Ưu-ba-ly:

 

Người khởi quán tưởng này gọi là chánh quán. Nếu ai quán khác đi gọi là tà quán."

 

Lúc bấy giờ Tôn giả A-Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, hai gối quỳ và chắp tay bạch Phật rằng:

 

"Lành thay, thưa Thế Tôn! Đức Thế Tôn khéo thuyết giảng về công đức của ngài Di-lặc. Lại thọ ký cho những chúng sanh tu phước đời vị lai sẽ được quả báo. Con nay xin tùy hỷ.

 

Thưa Thế Tôn! Pháp yếu này phải thọ trì thế nào, và Kinh này tên là gì?"

 

Phật bảo Ngài A-Nan:

 

"Ông hãy thọ trì lời Phật dạythận trọng chớ lãng quên. Hãy vì các chúng sanh đời vị lai mà khai mở con đường sanh thiên, chỉ bày tướng của Bồ-đề và đừng đoạn mất chủng tánh Phật.

 

Kinh này tên là Di-lặc Bồ-Tát Bát-niết-bàn, cũng gọi là Quán Di-lặc Bồ-Tát Sanh Đâu-suất-đà Thiên. Ông hãy khuyên người tu phát Bồ-đề tâmthọ trì như vậy."

 

Khi Đức Phật nói lời ấy xong, 100.000 vị Bồ-Tát đã đến dự Pháp hội từ những phương khác đắc Thủ Lăng Nghiêm Tam-muội. 80.000 ức chư thiên phát Bồ-đề tâm và họ đều nguyện sẽ tùy tùng theo Đức Di-lặc hạ sanh.

Khi bốn chúng đệ tử cùng thiên long bát bộ nghe Đức Phật nói xong thì thảy đều hoan hỷ vô cùng, họ đảnh lễ Đức Phật rồi cáo lui.

 

Phật Thuyết Kinh Quán Di-lặc Bồ-Tát Thượng Sanh Đâu-suất-đà Thiên


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11640)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11119)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11354)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12566)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10771)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17991)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9954)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10173)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12354)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15348)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11247)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14334)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12111)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12007)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12416)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11189)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12091)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10620)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12558)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14847)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12696)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16582)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19674)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12272)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11865)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13532)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11960)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11850)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11643)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12771)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14525)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12618)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13630)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12905)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18020)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11171)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13057)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10315)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12201)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15320)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12223)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11488)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14276)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19708)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14158)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24614)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10695)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant