Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Kiến Chánh

03 Tháng Ba 201512:20(Xem: 12002)
Kinh Kiến Chánh
PHẬT NÓI KINH KIẾN CHÁNH

Thích Trí Đức dịch


Kinh Kiến ChánhLỜI NÓI ĐẦU

 

Đạo lý luân-hồi đã làm cho các học giả trong đạo cũng như ngoài đạo, thắc mắc nan giải trong lúc đề cập đến nó. Nhưng vì là đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu đối với các vấn đề khác như, vô minh duyên khởi, nghiệp cảm duyên khởi, cho đến A-Lại-gia duyên khởi mà, trong Phật-giáo thường xem là hệ-trọng đặc biệt… Và chúng ta có thể nói rằng, người không nhận sự thật chúng sanh luân-hồi, là người sống theo vật chất khoái lạc chủ nghĩa hay ngẫu nhiên chủ nghĩa vậy.

Nhưng ngẫu nhiên!

Nhân loại có phải sanh trong ngẫu nhiên, sống trong ngẫu nhiên và chết trong ngẫu nhiên không? Không lẽ! Mọi loài đều ngẫu nhiên cả, thì đâu là ý nghĩa cuộc đời và đâu là chơn-giá-trị của hành vi sáng tác, ý chí tự do của con người? Huống chi trong đời sống hiện tại nầy, chúng ta có thể tạo những điều lành tốt để ngày mai hưởng quả sung-sướng, hoặc gây sự xấu xa, để nắn thành một ngày mai đen tối, hung ác. Nếu chúng ta không hiểu rõ nhân nào quả nấy, chẳng có sự ngẫu nhiên nào ngăn đón hay hủy diệt cái định luật nhân quả kia được, ắt chúng ta không bao giờ suy nghĩ làm điều như thế. Vậy cho biết không có ngẫu nhiên nhưng có nhân quả hẳn hòi. Và nhân quả ấy chuyền nối không dứt, tức là luân-hồi vậy. Phải, chúng sanh hẳn sống trong vòng luân-hồi.

Vì vậy đạo lý luân-hồi đã được Phật giảng dạy trong nhiều Kinh Luận. Kinh Kiến-Chánh sau đây là một. Nội dung Kinh nầy, Phật dùng nhiều bằng chứng ví dụ để chứng minh một phần đạo lý ấy.

Nay nhân dịp Khánh-thành nhà in LIÊN-HOA, gọi là để hồi hướng công đức của quí Vị đã có công đối với nhà in. Tôi xin lược dịch ra đây, để giúp quí đồng đạo nghiên cứu, hầu mong am tường thêm một đạo lý rất quan hệ đối với sự tu hành của người Phật-tử.

Dịch-giả: TRÍ ĐỨC - Phật Lịch 2516

 

PHẬT NÓI KINH KIẾN-CHÁNH

 

Tôi nghe như thế nầy: Một hôm Phật ở tại Tinh-Xá Kỳ-Hoàn nơi thành La-Duyệt-Kỳ. Trong lúc gần ngọ, Ngài cùng năm trăm Vị Tỷ-Khưu, một ngàn Vị Bồ-Tát và Ưu-Bà-Tắc, bưng đồ cúng dường đi ra ngoài thành La-Duyệt-Kỳ, bỗng gặp một cây đại thọ tên là Cam-Hương, cành lá sum-sê, cây to gốc lớn, hoa trái tươi tốt đỏ hồng, chứa chất một mùi vị thơm ngọt. Dưới gốc cây bằng phẳng. Phật muốn dừng lại đây lót đá mà ngồi. Hàng đệ-tử tùy tùng vâng theo ý Phật, sửa chỗ cho Phật ngồi, rồi ai nấy cũng đều ngồi quanh Ngài.

Trong đám đệ-tử, có một Tỷ-Khưu tên là Kiến-Chánh, người mới nhập đạo tu hành, nên trong tâm có chỗ nghi hoặc: "Phật thường nói có đời sau, nhưng từ loài vật cho đến loài người, khi chết rồi chưa từng ai trở lại báo cho biết việc ấy như thế nào cả?" Ông liền đem điều ấy hỏi Phật, Phật nhân đấy bảo cho các đệ-tử rõ, bằng những điều chứng minh, thí dụ như sau:

-- Gốc đại thọ nầy, vốn từ một hột giống và nhờ các trợ duyên: đất, nước, gió, lửa mà nó được to lớn, tàn cây có thể che một số người như thế nầy. Truy nguyên thời kỳ hột giống, thì không thấy có nhánh, lá, hoa, trái gì cả. Nhưng gặp đủ nhân duyên tứ-đại, nó nứt mầm, nẩy nhánh, sanh hoa, kết trái dần dần thành một cây to, tàn che một khoảnh đất rộng. Ban đầu nó chỉ gọi là hột, hột sinh mầm, mầm sinh nhánh, nhánh sinh lá, lá sinh hoa, hoa sinh trái, trải qua nhiều giai đoạn, thay đổi triển chuyển mới thành cây đại thọ, đối với hột giống không phải một mà chẳng phải khác, có danh nhưng chẳng phải thường danh. Nó đã trở thành cây đại thọ. Có thể nhóm tất cả hoa, trái, nhánh, lá, cọng, gốc kia lại, làm hột giống khi xưa được không?

-- Không thể được – lời các đệ-tử đáp – chúng đã biến chuyển thì không thể trở lại được nữa. Một ngày một mục nát, hột giống trở thành mầm, nhánh vân vân. Cứ vậy càng sanh càng đổi, tuy không bị tiêu mất, nhưng cũng không thể trở lại hột giống như xưa.

-- Sanh tử cũng như thế. Thần thức là pháp nguyên khởi, pháp ấy là si (vô-minh). Do vô-minh sanh tham ái. Vô-minh in như hột giống. Hột giống tuy nhỏ mà trưởng thành cây đại thọ, vô-minh tuy ẩn vi mà gây thành nhiều hiện tượng nhân duyên sai khác. Các hiện tượng nhân duyên đều do thức tâm xuất hiện. Từ vô-minh sanh ra hành, hành sanh thức, thức sanh danh sắc, danh sắc sanh lục nhập, lục nhập sanh xúc, xúc sanh thọ, thọ sanh ái, ái sanh thủ, thủ sanh hữu, hữu sanh sanh, sanh sanh lão tử, hợp lạimười hai nhân duyên, làm bản thể cho thân nầy. Đã có thân thì có ngày già, chết. Khi ấy thần-thức tùy theo hạnh nghiệp dắc dẫn, mà sanh thành một xác thân khác, cũng có Cha mẹ, cũng thọ hình thể, cũng sanh lục tình, cũng khởi tập nhiễm, cũng chịu khổ vui, cũng theo phong tục, nhưng không thứ nào trở lui như cũ. Đã không thể trở lại kiến thức như cũ, thì chẳng làm sao biết được quá khứ. Người ta chỉ một mặt theo kiến thức mới, bảo là thực có, là thường còn, rồi cố chấp theo những điều tri kiến đó, nên không biết rằng: đời trước và đời sau do thần thức chuyển di theo hạnh nghiệp mà phát hiện ra vậy.

Thần thức đã chuyển di, lại nhờ có cha mẹ làm trợ duyên sanh ra hình thể mới, bị khuôn khổ theo lục tình, tập nhiễm, khổ vui, phong tục, không thể trở lại đời cũ, cũng không thể trở lại thân hình cũ, tập quán cũ, kiến thức cũ, như cây đại thọ, không thể trở lui hột giống của ngày trước.

Sau khi nghe Phật dạy, Tỷ-Khưu Kiến-Chánh đứng dậy, quỳ thẳng bạch Phật: "nghi ý của đệ-tử vẫn chưa trừ giải. Giờ đây chính là lúc đệ-tử tỏ bày chỗ ngu si ngưỡng mong Thế-Tôn thương xót chỉ dạy cho. Đệ-tử từ khi nhỏ đến giờ, gặp người chết không phải là ít: hoặc cha mẹ, anh em, vợ chồng, nội ngoại, hoặc bằng hữu đang thương yêu nhau, hoặc kẻ oán thù đang giận ghét nhau, mà sau khi chết, thần thức họ vẫn không trở lại gặp mặt, trả lời cho biết ai sướng ai khổ thế nào cả. Tại sao vậy? Thần thức bị điều gì làm cách ngại, mà họ không trở lại diện báo cho người sống biết? Mong đức Thế-Tôn giải bày phân biệt để chúng đệ-tử, đoạn trừ nghi kiết, sớm thấy lẽ thật."

-- Nầy Tỷ-Khưu! Thần thức kia không hình trạng, khi chuyển di thì tùy theo hạnh nghiệp mà phát hiện. Nếu người ở đời làm phước, thần thức phước đức chuyển sang đời khác, cũng còn không thể trở lại diện báo cho biết được, huống chi là kẻ hung ác. Vì sao? Vì như nhà kỹ-sư nấu đá cho chảy để tìm thiếc, đã thành thiếc rồi lại đúc làm các khí cụ, những khí cụ ấy, có thể khiến nó trở lại đá được không?

Thần thức chuyển đi, ở tại thân trung-ấm, ví như đá đã lọc thành thiếc; từ trung-ấm thay đổi, thọ sanh thân khác, như thiếc đã đúc thành khí cụ. Hình thể đã thay đổi tiêu ma, không trở lại thân cũ được.

Những ai tu hành năm điều thiện (năm giới) họ sẽ được bẩm thọ thân người, họ sẽ có cha mẹ, và bị sáu thứ ràng buộc: 1) Ở tại trung-ấm, không thể trở lại kiếp xưa. 2) Bị bó buộc trong bào thai. 3) Khi sơ sanh bị ép bức đau đớn quên hết dĩ vãng. 4) Rớt xuống đất, các kiến thức trước đều mất, sanh ra kiến thức mới. 5) Sanh ra rồi liền tham trước vật dục, vì tham trước nên kiến thức cũ bị gián đoạn. 6) Lần lần khôn lớn, tập theo kiến thức mới, chứ không nhớ lại kiến thức xưa.

-- Các đệ-tử: Ví như người khách buôn, đi khắp bốn phương, gặp đủ điều vui khổ. Khi nhớ nghĩ những điều ở một quận ấp về phương đông, thì họ không còn nhớ gì về ba phương kia nữa. Trong đường sanh tử cũng vậy. Trong đời nầy tạo tác hạnh nghiệp rồi sanh qua đời khác. Khi đã thọ thân khác, liền sanh kiến thức mới, cho nên kiến thức cũ không phát hiện ra.

Bởi sáu việc ấy chằng trói ngăn ngại, nên không biết lại đời cũ và báo tin cho ai.

-- Hoặc như người thợ gốm, nung đất làm đồ, do sức lửa đốt, miếng đất trở thành tấm ngói; ta có thể khiến tấm ngói ấy trở lại cục đất được không?

-- Thưa, không thể được.

-- Hoặc như một cây đại thọ bị người ta đốn xuống, cưa xẻ, làm thành hàng trăm thứ đồ dùng. Nếu có người muốn nhóm góp những đồ vụn vặt và các tấm gỗ đã bị cưa, làm lại cây đại thọ như trước được chăng?

-- Thưa không được.

-- Hoặc như người thợ nấu cát thành ra sa sắc hồng, rồi lại thành sắc trắng mà hóa ra như nước. Ta có thể khiến sắc hồng ấy trở lại cát được không?

-- Thưa không được.

-- Sanh tử cũng như thế, người chưa có đạo ý, chưa có đạo nhãn, khi thân chết, thần thức biến hóa theo hạnh nghiệp, thọ sanh thân khác, trong những đời khác, họ bị bưng bít trong thai bào, trong kiến thức, trong tập tánh mới rồi, thì họ không thể nào biết lại đời trước được.

Hoặc như nước đựng trong bình tròn thời nước thành tròn, đổ sang đồ vuông thời nước lại thành vuông. Tùy theo đồ đựng, mà nước phải thay hình đổi dạng theo tướng trạng lớn nhỏ, tròn vuông. Sanh tử cũng như thế. Thức tâm vốn không có hình thể nhứt định, chỉ tùy theo hành vi thiện áclãnh thọ báo thân. Có trắng, đen, dài, ngắn, khổ, vui, lành, dữ, đều là sự biến đổi hiện hình, theo hạnh nghiệp cả. Như tâm thức của ta khi ở đời đã gây điều phi pháp, nên bị đọa làm bàng sanh, mất tự do trong khổ sở, làm sao biết lại đời trước mà báo tin cho ai hay.

-- Hoặc như con sùng, sinh ở trong đất, không kêu, không có cánh, nhưng đúng thời tiếthóa thành con ve, ở trên cây kêu suốt ngày, không ngớt. Ta có thể bảo con ve ấy trở lại với thân hình con sùng đặng báo tin cho các con khác ở trong đất biết được không?

-- Thưa không được. Con sùng đã biến đổi, rời âm để sống trong dương khí, thân hình thay đổi dần cho đến ngày chết đi, hoặc bị chim chóc bắt ăn thịt, chứ không thể trở lại thân sùng được.

-- Sanh tử cũng vậy. Thân nầy chết rồi, thần thức di chuyển, thọ sanh thân mới, bị ngũ ấm ngăn che, nào kiến thức, nào tập tánh đều đổi mới trong một hoàn cảnh khác, cho đến ngày tiêu mòn già chết, chứ không thể trở lại thân hình cũ với kiến thức cũ, báo tin cho ta biết.

-- Hoặc như miếng thịt sống, để lâu ngày hôi hám, hóa sanh trùng giòi. Muốn cho nó trở lại thành miếng thịt tươi được không?

-- Thưa không được.

-- Sanh tử cũng vậy. Người thế-gian, tâm nghĩ ác, miệng nói ác, thân làm ác, khi họ chết, thần thức chuyển di, đọa làm thân địa ngục, bàng sanh, ở trong cảnh giới mới lạ, sự thấy biết khác với ngày trước, lại bị lưới tội buộc ràng, không biết được ngày xưa, nên cũng không trở lại báo tin cho ta hay được.

-- Hoặc như đêm tối không trăng, mọi vật ở trong hắc ám. Giá có người trong trăm ngàn vạn người xem mọi vật đêm tối ấy, họ có thể biện biệt được màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng không?

-- Dù ức triệu người xem trong đêm tối, cũng chẳng thấy được gì, huống chi là biện biệt năm màu sắc.

-- Nếu có người cầm đuốc soi sáng, bảo cho họ xem, họ có thể thấy được không?

-- Có thể thấy được.

-- Nếu có người ngu không cầm đuốc, đi vào chỗ tối. Càng đi càng xa, càng tối, khi ấy họ muốn thấy năm sắc được không?

-- Người ngu đã xây lưng với ánh sáng mà đi vào chỗ tối, họ đi xa không bao giờ thấy màu sắc được cả.

-- Các đệ-tử! Chúng sanh ở trong đường sanh tử tối tăm cũng như thế. Từ người cho đến loài vật, hễ đã mang thân hình, ngu si mờ ám, không có đạo hạnh, không hiểu được nguồn gốc thân tâm, chưa có tuệ nhãn mà vội mong biết đến thần thức qua lại thọ sanh trong đường sanh tử, lui về báo tin, chẳng khác nào ở trong đêm tối muốn thấy năm sắc. Trái lại, nếu biết học kinh trì giới, tu hành ba mươi bảy món trợ đạo Bồ-đề, giữ gìn tâm ý thanh-tịnh, là họ như người cầm đuốc sáng thấy rõ năm sắc. Người nương theo giáo pháp đức Phật, có thể biết đường sanh tửcảnh giới thiện ácthần thức đã qua lại. Ngoài ra những người không thấu rõ thân tâm, ngược bỏ kinh giới, theo giòng trần-tục, tự ý buông lung, đoạn diệt thật pháp, lòng không tin tưởng, thật hành Phật-pháp, kẻ ấy như người vất đuốc mà đi vào chỗ tối, càng đi càng mù mờ không trông thấy gì cả.

-- Các đệ-tử! Các người chớ thuận theo tâm ý ngu si, kiết phượcnghi ngờ đạo lý chơn chánh thanh-tịnh. Nếu thuận theo tâm ý ngu si, các người khó tránh khỏi cảnh giới tối tăm, đọa đầy thống khổ. Ta đã có ý dẫn dụ giải bày rành rẽ, vậy các ngươi hãy siêng năng phụng hành, đừng bao giờ quên.

-- Các đệ-tử! Người đời chỉ dùng mắt thịt mà thấy những việc trong hiện tại, nhưng không thể thấy trước đây mình từ đâu đến, mà sau khi già chết, bước sang đời sau, thọ một thân hình khác, cũng không biết lại những việc ngày nay. Vì sao? Vì mỗi lần sống chết, thần thức chuyển dịch theo mười hai nhân-duyên, mà trong mười hai nhân-duyên, ngu si là chủ yếu mà tối tăm, nên một lần thay đổi, khó biết lại việc cũ. Như đem tấm vải trắng nhuộm thành các màu xanh, vàng, đỏ, tím, tấm vải đã bị nhuộm không thể trở lại như cũ được. Sanh tử chuyển dịch cũng như thế. Thức tâm không có tánh-thể thường nhứt, nó bị nhuộm theo hạnh nghiệp mà thay đổi mãi. Vả lại, tâm ý của chúng sanh thường tưởng niệm mọi pháp, trong một đời người, lòng nghĩ muốn về những điều lành dữ báo ứng rất nhiều, hễ các niệm mới sanh thì niệm cũ diệt, mà trong đường sanh tử chỉ ngu si là thường hơn cả. Ai muốn hiểu nguồn gốc sanh tử qua lại, hãy gắng tu luyện thân tâm, thâm nhập thanh-tịnh, suy nghĩ nguồn gốc mọi pháp, thì có thể khai ngộ như thức giấc ngủ.

-- Các đệ-tử! Thần thức bị điều si ám trong việc thiện ác, nên hễ chết rồi lại sanh với những thân hình sai khác. Không hạnh nghiệp thiện ác là không thọ thân, như lửa gặp củi thì còn, củi cháy hết thì không, ý thức không hành vi thiện ác thời cũng không còn có hình thức gì vậy.

Hoặc như gương mờ không thể soi thấy gì được. Bức gương thức tâm bị hỗn trược ngăn che, chuyển di sanh tử, đầy dẫy thảm khốc sợ hãi, và bị dắc dẫn theo sự họa phúc tai ương, cũng vậy, chẳng soi thấy việc trong đời cũ. Như ao nước đục, dẫu có cá trạnh trong đó, vẫn không làm sao trông thấy. Ở trong sanh tử hỗn loạn, bị mọi điều ưu tư bưng bít, nên hễ một lần chuyển sang kiếp khác, là quên mất việc đời cũ. Như người nhắm mắt đi trong đêm tối, hoàn toàn chẳng trông thấy gì. Người đi trong đêm tối sanh tử, trôi theo giòng họa phúc, phải cam chịu điều mừng vui, khổ não, không thể biết lại việc cũ trong kiếp trước.

-- Các đệ-tử! Ta lấy tuệ-nhãn thanh tịnh soi thấy một cách rõ-ràng, hết thảy chúng sanh qua lại sanh tử trong vòng ba cõi, khác nào nhìn sợi chỉ trong hột ngọc thủy-tinh, lưu ly. Xanh, vàng, đều trông thấy rõ. Và như nước trong, có thể nhìn thấu đáy, tất nhiên thấy rõ các loài thủy tộc trong ấy. Phật thấy chúng sanh sống chết trong năm đường, như người đứng bên chiếc cầu lớn, thấy rõ tất cả hành khách qua lại trên cầu. Hoặc như đứng trên núi cao, nhìn thấy cả bốn bề xa gần, Phật ý cao viễn, Ngài thấy mọi loài sanh tử cũng vậy.

Các ngươi nếu theo lời chỉ dạy của ta, thì biết rõ tử sanh trong muôn ngàn kiếp. Thật hành ba mươi bảy pháp trọng yếu là 4 món niệm xứ, 4 món chánh cần, 4 món thần túc, 5 căn, 5 lực, 7 món giác ý, 8 món chánh đạo để trừ bỏ sự nhơ xấu nơi tự tâm, diệt trừ ba độc tham, sân, si, cắt dứt mối nghi ngờ, khai hóa trí-thức thanh tịnh, như chư Phật, là có thể biết được việc quá khứ vị lai.

-- Các đệ-tử! Người đời làm những điều thiện ác, chết rồi đều có sự báo đáp lại cả. Nhưng không ai biết được là vì chưa có ba thứ tịnh nhãn. Bị ngăn ngại theo lục căn, nhìn với con mắt thịt, cứ làm theo những việc xấu xa ô trược, đắm đuối trong chỗ ngu si, chuyển hóa theo giòng sanh tử, bị xác thân chướng ngại, nên rời việc cũ say việc mới, không thể biết có sự báo đáp tùy theo hạnh nghiệp ấy. Chứ ở đời có sự thọ phước, thọ ương, hoặc tương lân, tương ố lẫn nhau, đó chính là sự thật, chứng nghiệm việc báo tin của hạnh nghiệp quá khứ vậy.

Người đời bị trói buộc trong sự nghi ngờ, sanh ra từ chỗ ngu si, không chút hành vi thanh-tịnh, mà muốn biết việc đời trước cùng những hiệu quả báo ứng, họ khác nào kẻ không tay muốn viết, không mắt muốn trông. Vì cớ đó Phật ra đời, giảng bày kinh đạo, mở mang tâm ý mọi người. Ai là kẻ muốn biết rõ và cải hoán nhân quả hưởng thọ của mình trong đường sanh tử, hãy tùy theo Phật-giáo, thật hành đạo pháp, trau dồi trí tuệ, điều chính tâm ý, luyện tập thiền quán, thì đều có hiệu quả được cả.

-- Các đệ-tử! Thần thức có danh không hình, tùy hành vi thiện ác và bốn món đại làm thể chất. Lúc mới sanh thân nhỏ, sáu căn chưa đủ, kiến thức hẹp hòi, hiểu biết cạn cợt, đến khi khôn lớn, đủ cả sáu căn, thức tâm huân tập thêm những điều ái dục, càng ngày càng nhiều, cho đến ngày suy yếu, bốn đại tiêu mòn, thức tâm không còn minh mẫn, sáu tình giảm ít. Chỉ trong một đời hiện tạivô thường thay đổi, sau không giống trước, kiến thức khi trẻ như bị quên hết với tuổi già, huống chi nhiều đời cách biệt, thai ấm ngăn che, chưa được đạo ý, tà hạnh mê lầm, mà mong biết sau khi chết trở lui báo tin. Mong biết việc trước như vậy, khác nào kẻ xâu kim trong đêm tối, tìm lửa trong nước mà thôi.

Vậy các đệ-tử! Hãy siêng năng thực hành kinh giới, thâm tư nguồn gốc sanh tử: Từ đâu lại và sẽ về đâu? Nhân gì mà có sự qua lại? Duyên gì mà phải sanh tử? Suy xét cho kỹ tự tánh vô ngã của các pháp, thì mọi điều nghi ngờ nhất thời tự giải.

Phật nói kinh nầy rồi, năm trăm Tỷ-Khưu và Ưu-Bà-Tắc, đều được kiến đạo và các hàng Bồ-Tát đều được bất thoái tam muội. Tất cả đứng dậy, nhiễu quanh Phật ba vòng, lễ Phật sát đất, lễ xong, theo Phật trở về Tinh-Xá.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11973)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11124)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11361)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12082)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12574)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10778)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17999)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9962)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10188)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12362)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15359)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11260)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14341)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12122)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15384)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12013)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12426)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11197)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12098)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10630)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12568)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13181)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14854)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12705)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16589)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12276)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11869)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13548)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11967)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11854)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11648)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12779)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12628)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15672)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13638)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12915)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9885)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18029)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11184)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9092)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12194)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13072)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10324)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12207)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15329)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16618)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12231)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11497)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14282)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14163)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24623)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10705)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12510)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant