Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Phật Dạy Trong Kinh Tạng Nikaya Tập 1

22 Tháng Ba 201506:39(Xem: 13249)
Lời Phật Dạy Trong Kinh Tạng Nikaya Tập 1
LỜI PHẬT DẠY
TRONG KINH TẠNG NIKAYA TẬP 1

Quảng Tánh

 Nhà Xuất Bản Tôn Giáo


 

Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàyakết tập những bài viết trong mục Lời Phật dạy được đăng tải hàng tuần trên báo Giác Ngộ. Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức và thể nghiệm nhất cho đọc giả.

Kinh tạng Nikàya là cả kho tàng kinh điển Phật giáo Nguyên thủy (Pali tạng) rất đồ sộ, hiện đã chuyển ngữ hoàn toàn sang tiếng Việt, bao gồm Dìgha Nikàya (Trường Bộ), Majjhima NiKàya (Trung Bộ), Samyutta Nikàya (Tương Ưng Bộ), Anguttara Nikàya (Tăng Chi Bộ), và Khuddaka Nikàya (Tiểu Bộ). So với kinh điển Hán tạng thì năm bộ Nikàya chưa phải là nhiều, song với nội dung vô cùng phong phú và được xem là nguyên thủy nhất, Kinh tạng Nikàya là nền tảng căn bản của giáo điển Phật giáo.

Đọc Kinh tạng Nikàya, chúng ta như được sống trong thời đại Thế TônThánh chúng với bối cảnh xã hội Ấn Độ đương thời cách nay gần 26 thế kỷ. Thế Tôn thật minh triết mà bình dị, đi đến đâu và gặp việc gì thì tùy duyên giáo hóa nên những lời dạy của Ngài vô cùng gần gũi, thiến thân với đời sống con người thời ấy và vẫn còn nguyên giá trị cho nhân loại ngày nay.

Những bài viết trong Lời Phật dạy gồm hai phần, kinh văn và lời bàn. Phần kinh văn hầu hết được trích dẫn nguyên bản hay một trích đoạn của kinh hoặc nguyên đoạn kinh nhưng có tĩnh lược những phần lặp lại cùng với xuất xứ cụ thể, chi tiết của đoạn kinh văn đó. Chúng tôi xem đây là phần quan trọng, chính yếu nhất vì đã góp phần giới thiệu đến bạn đọc nguyên văn lời vàng phát xuất từ kim khẩu Thế Tôn. Phần lời bàn, thực ra chỉ là sự giải thích sơ lược một số từ ngữ hay ý nghĩa kinh văn hoặc là đề xuất một hướng nhận thức cùng sự liên hệ, đối chiếu với thực tế theo thiển ý của người biên soạn, là phần thứ yếu để tham khảo thêm.

Vì tất cả những Lời Phật dạy đều được rút ra từ Kinh tạng Nikàya nên khi tập hợp thành sách có tên Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàya. Nội dung tuyển tập Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàya (tập I, II và III) được sắp xếp theo từng chủ đề sẽ tiện lợi cho việc tra cứu những lời Phật dạy về một đề tài nào đó vốn rải rác ở nhiều nơi trong Kinh tạng. Tuy nhiên, chủ đề ở đây cũng chỉ mang tính quy ước tạm thời vì có những Lời Phật dạy tuy cô đọng nhưng hàm súc, bao quát ý nghĩa của nhiều vấn đề.

Về địa điểm xuất xứ của từng pháp thoại, trong kinh văn không phải lúc nào cũng ghi rõ. Gặp trường hợp các pháp thoại không trực tiếp ghi địa điểm, khi biên soạn mục Lời Phật dạy, chúng tôi phương tiện bằng cách lần ngược lại phía trước, lấy đó tái xác lập địa điểm để mỗi pháp thoại đạt được hoàn chỉnh và trang nghiêm. Việc làm này rõ ràng có tính chính xác tương đối nên nhân đây, chúng tôi xin thưa rõ để bạn đọc lưu tâm.

Bằng tất cả sự cố gắng và chân thành, Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàya, tập I, đã ra mắt bạn đọc. Để có được tập sách này, ngoài nỗ lực của bản thânsự giáo dưỡng, trợ duyên rất nhiều của các bậc thầy, pháp lữ và sự tán trợ của đọc giả. Xin chân thành tri ân và ngưỡng mong chư tôn đức cùng bạn đọc hằng soi sáng, chỉ giáo thêm.

Người biên soạn

QUẢNG TÁNH

LỜI GIỚI THIỆU

 

Lời Phật dạy là một tiểu mục trong chuyên mục Phật học của báo Giác Ngộ. Tiểu mục này được xây dựng từ năm 2003, bằng cách trích tuyển nguyên văn hoặc một phân đoạn của những kinh thuộc Trường Bộ, Trung Bộ, Tăng Chi Bộ, Tương Ưng BộTiểu Bộ (Kinh tạng Nikàya) đồng thời kèm theo phần Lời bàn ngắn gọn, súc tíchthiết thực.

Nội dung kinh tạng Nikàya bao hàm nền tảng căn bản giáo lý Phật Đà, rất thiết thân, gần gũi, dễ hiểu và dễ ứng dụng thực hành. Trong những năm qua, Lời Phật dạy đã lần lượt giới thiệu đến đọc giả rất nhiều pháp thoại với nhiều đề tài khác nhau. Từ những giáo lý căn bản như Tam quy, Ngũ giới cho đến Tứ đế, Duyên khởi, Vô ngã; từ những phương thức xây dựng đời sống gia đình an vui hạnh phúc cho hàng Phật tử tại gia, đến các phương pháp tu tập chuyển hóa phiền não nhằm thành tựu các Thánh vị cho hàng đệ tử xuất gia v.v…đều được Lời Phật dạy chuyển tải đến bạn đọc.

Với khuôn khổ nhỏ hẹp của trang báo, chắc chắn rằng nội dung của Lời Phật dạy chưa thể hiện được hết đầy đủ yếu nghĩa của Kinh tạng. Tuy vậy, với sự tìm tòi rất công phu trong Kinh tạng đồ sộ, trích tuyển kinh văn phù hợp với các nội dung tu tập của từng tời điểm trong năm cùng với cước chú chi tiết nguồn gốc mỗi bản kinh và nhất là phần lời bàn giản dị mà sâu sắc của tác giả đã giúp cho tiểu mục Lời Phật dạy được đông đảo bạn đọc quan tâm, ủng hộ.

Nay nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, học tập và thể nghiệm lời Phậ dạy của bạn đọc, tác giả tiểu mục Lời Phật dạy tập hợp các bài viết đã đăng báo theo từng chủ đề và in thành sách Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàya (tập I, II và III). Thiết nghĩ, tập sách này là hành trang cần yếu cho những ai quan tâm nghiên tầm, học tập những tinh hoaĐức Phật đã dạy. Với cổ xưa nhất của kinh tạng Nikàya, hy vọng độc giả sẽ được gội nhuần trong phạm âm vi diệu của Thế Tôn, thuở Ngài còn tại thế.

Trân trọng giới thiệu sách Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàya (tập I) đến với bạn đọc gần xa.

TP. HCM, ngày 25 tháng 3 năm 2008

Tổng biên tập Báo Giác Ngộ

Hòa thượng Thích Trí Quảng

Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàya

NHƯ NGUYỆT

 

Có một người lặng lẽ bao năm tìm đọc trong rừng Kinh tạng Nikàya để thâm nhập ý nghĩa của những lời Phật Thích Ca một thời thuyết pháp độ sanh.

Đức Thế Tôn sau khi giác ngộ đã phương tiện dùng lời nói để giáo hóa chúng sanh trong thời Ngài trụ thế. Vì thế, trong số Kinh tạng Nguyên thủy hiện còn gìn giữ được, lời Phật dạy không chỉ chứa đựng triết thuyếtphương pháp thực hành nhằm đạt giác ngộ, mà những pháp thoại này còn phản ánh đầy đủ bức tranh của xã hội đương thời.

Tìm về lời Phật trong kho tàng kinh điển Nikàya, tác giả Quảng Tánh bao năm nay như tự đặt mình vào không gian của Ấn Độ thời cách nay hơn 2.500 năm, chứng kiến trường hợp ra đời của những bài pháp thoại của Thế Tôn, và chiêm nghiệm những gì ẩn tàng bên trong kim ngôn của Đức Phật.

Người chí tâm học đạo, y cứ trên kinh văn gốc và suy nghiệm về giáo lý của Thế Tôn với mong mỏi tiếp cận một cách chân thực nhất giáo nghĩa đang làm lợi lạc cho chúng sinh bao đời nay. Công hạnh ấy lại càng được tán thán khi tác giả Quảng Tánh không ngại hổ mình, đứng ra đảm đương mục “Lời Phật dạy” trên báo Giác Ngộ suốt 5 năm qua.

Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật. Chuyên mục “Lời Phật dạy” chủ trương trích nguyên văn từ Kinh tạng Nikàya những lời dạy của Đức Phật với sự hệ thống về chủ đề cũng như chọn lựa nội dung phù hợp dòng chủ lưu thời sự đang chuyển tải trên báo. Thêm vào đó là những “lời bàn” ngắn gọn, không nhằm ý giảng giải lời Phật, mà người giữ mục như muốn chia sẻ ý kiến của mình về nội dung lời kinh được trích, đồng thời cũng liên tưởng đến những nội dung kiến thức cần tham chiếu để người học đạo qua đó có thể hiểu thêm lời kinh.
Chẳng hạn, trong bài “Hai hạng người đáng được cúng dường” trích từ kinh Tăng Chi Bộ, trong “lời bàn” tác giả đã nói rõ thêm về công hạnh của việc cúng dường, như thế nào là “như pháp cúng dường”… giúp người đọc có thể tham chiếu để hiểu thêm kinh văn.
Đây cũng là một cách gieo duyên cho những ai trên đường học Phật, có thể tiếp cận lời dạy của Phật Thích Ca từ góc độ “thời sự” của hôm nay.

Duy trì một chuyên mục như thế, đòi hỏi không chỉ tâm huyết của người giữ mục, mà khối lượng kiến thức sở đắc, sự nhạy bén trước thời cuộc, tâm nguyện muốn khơi dòng cho Phật đạo chảy mãi trong chúng sinh… là những phẩm hạnh không thể thiếu.
Thời gian qua, nội dung của chuyên mục “Lời Phật dạy” thu hút nhiều độc giả. Nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng từng tâm đắc với chuyên mục này, đặc biệt là sự “ăn khớp” giữa nội dung lời kinh với những vấn đề Phật sự đang được công chúng quan tâm trên báo.
Đến nay, tất cả nội dung từ chuyên mục này được biên soạn thành tập sách Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàya(*) là một tín hiệu vui cho những độc giả bấy lâu theo dõi.

Thoát khỏi dòng chảy thời sự, những bài viết từ chuyên mục “Lời Phật dạy” chuyển vào trong tập sách này được hệ thống thành 12 chủ đề: Lòng tin; Bố thí & cúng dường; Làm giàu; Tài sản; Cư sĩ; Xuất gia; Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi; Nhân quả; Hiếu đạo; Giới; Định; Tuệ. Có thể xem 12 chủ đề này là 12 nội dung lời dạy của Phật được giới thiệu trong tập 1 của bộ sách. Mỗi nội dung, soạn giả chủ ý chọn một lượng bài viết nhiều hay ít đủ để người đọc hiểu được lời Phật dạy về nội dung đó.

Chẳng hạn, trong nội dung “Làm giàu”, tác giả chọn sáu bài viết về: Kinh doanh thành công, Không kinh doanh phi pháp, Làm giàu, Giàu lên dễ sanh tật, Có mắt mà như mù, Sự nghèo khổ. Với sáu góc độ được phân tích như vậy, người đọc dễ dàng nhận ra quan điểm của đạo Phật (trực tiếp từ kim ngôn của Thế Tôn) về làm giàu. Đây chính là giá trị thiết thực của tập sách. Bởi tất cả nội dung được tuyển chọn không rời các vấn đề chúng sanh đang đối mặt hàng ngày. Có như vậy, người học đạo mới tìm ra con đường gần nhất, ngay tại môi trường sống của mình, mà vẫn theo được dấu chân của Như Lai.

Có như vậy, Phật pháp mới không rời thế gian pháp.

(*) Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàya, tập 1 – Biên soạn Quảng Tánh – NXB Tôn Giáo - ấn hành quý 2 – 2008.

Những bài học quý từ Kinh tạng Nikàya

LAM ĐIỀN

 

Những bài Phật học trích từ kinh tạng Nikàya do tác giả Quảng Tánh đứng mục trên Giác Ngộ lại được tập hợp thành sách để ra mắt bạn đọc. “Lời Phật dạy trong kinh tạng Nikàya - tập II” (Nxb Tôn Giáo - quý II, 2009) là những bài kinh có từ lúc Thế Tôn còn tại thế, được thuật lại theo hướng tiếp cận như với những câu chuyện của cuộc sống đương đại cùng với lời bình nhằm góp phần ứng dụng triết lý Phật giáo trong đông đảo quần chúng.

Tiếp cận Kinh tạng Nikàya là tìm về những văn bản có độ tin cậy cao nhất ghi lại lời thuyết pháp từ kim khẩu của Thế Tôn. Giữa muôn trùng lời kinh, việc chọn lọc những câu chuyện gần gũi với cuộc sống, phù hợp với cách tiếp nhận đạo Phật và chứa đựng lợi ích thiết thực của người dân Việt khi hành trì, là cả một nghệ thuật.

Với cách chọn lọc và giới thiệu các bài kinh vừa không quá hàn lâm khó hiểu vừa [trong chừng mực nào đó] phù hợp với dòng chủ lưu thời sự trong đời sống truyền thông, chuyên mục “Lời Phật dạy” trên Giác Ngộ đã dần trở thành điểm quan tâm của độc giả - những người có ít nhiều quan tâm đến Phật pháp và đang tìm cho mình cách sống lành mạnh theo giáo lý nhà Phật.

Nay, những bài báo được tâp hợp thành sách, bạn đọc có trên tay toàn cảnh của rừng Pháp Như Lai được người biên soạn mở từng cánh cửa và hướng đến mọi người: Ăn uống & sức khỏe; Ngủ nghỉ, thư giãn; Nam giới; Phụ nữ; Cầu nguyện; An cư; Già chết; Thuyết pháp & Nghe pháp; Chư thiên & Ma quỷ; Tham ái; Sân hận; Si mê.

Việc chắt lọc từ kinh tạng nguyên thủy thành một tập sách với những chương mục như thế, là cách làm mạch lạc, đặt vào tay người học Phật những đề mục cụ thể, thiết thực, kèm với mỗi bài kinh là những dòng bình luận, gợi ý, phân tích, hoặc đề nghị một vài cách thực hành… quả là công việc của thiện tri thức. Điều đáng quý là chủ ý của người biên soạn muốn cùng với độc giả lần tìm trong nhiều ngóc ngách lời dạy của Thế Tôn. Nội dung sách không chỉ đề cập đến việc thuyết phápnghe pháp, chuyện cầu nguyệnan cư, mà soạn giả cũng mạnh dạn đề cập những nội dung thiết thực rất đời thường như: Người đàn ông lý tưởng, Sinh con trai - con gái, Sự trói buộc giữa nam và nữ… (chương Nam giới), hay như những bài giảng của Thế Tôn về: Người con gái trước thềm hôn nhân, Người vợ lý tưởng, Dễ thương như người vợ trẻ… (chương Phụ nữ) đã làm “mềm hóa” những bài giảng của Đức Phật. Chẳng hạn như những lời giáo huấn của Thế Tôn về công việc làm dâu với những người con gái của Uggaha: vừa dặn dò cách vén khéo những công việc trong nhà chồng, vừa chỉ cách cư xử sao cho phải đạo dâu con, lại khuyên nhủ nên cẩn thận với người gian để giữ gìn an ổn cho cuộc sống nhà chồng… Lòng từ mẫn của Thế Tôn như thế, được trình bày bên cạnh những bình luận cần thiết của soạn giả, thật sự gây xúc động cho người đọc. Qua đó, càng thấy triết lý nhà Phật không phải chỉ là những ý tưởng cao xa kỳ vĩ, mà những lời từ Thế Tôn truyền lại đến ngày nay vẫn còn nguyên tính khả thi, vẫn cần cho những ai đang khát khao tìm kiếm một liệu pháp an định thân tâm giữa cuộc đời bề bộn hôm nay.

Hàm lượng tri thức của các vấn đề được đề cập ở đây đã vượt qua khuôn khổ một tập sách hơn hai trăm trang. Có lẽ, tác giả tập sách cũng xuất phát từ tinh thần cầu học vô ngại, nên có nhiều vấn đề thuộc loại “kính nhi viễn chi”của Nho gia, thì ở đây, cũng được trình bày dưới ánh sáng của triết lý Phật giáo. Đó là những bài ở chương “Chư thiên và ma quỷ”. Các khái niệm “phi nhân”, “ngạ quỷ”, “ác ma”… trong kinh Phật thuyết cách đây hàng nghìn năm, sẽ rất khó thuyết phục độc giả hiện đại nếu người viết không cẩn trọng phân tích, và đề xuất những cách hiểu hợp lý cho người học Phật ngày nay.

Ở đây, tác giả chẳng những cẩn trọng đối với các nội dung ấy, mà còn dành hẳn ba chương của tập sách để trình bày về tham, sân, si - những tập khí sâu dày khiến chúng sinh trầm luân trong khổ. Ngày nay, có nhiều doanh nhân, trí thức tìm đến Phật pháp như một liệu pháp an thần, và sau khi tham cứu, nghe giảng, cũng lờ mờ hiểu rằng: giải thoát có thể bắt đầu từ diệt trừ tham, sân, si. Nhưng về vấn đề đó, ngày xưa Đức Phật từng giảng thế nào, đề cập trong những bài kinh nào, ý nghĩa ra sao, ngày nay chúng ta còn có thể áp dụng để hành trì được không… là những băn khoăn quan trọng của nhiều người. Tác giả Quảng Tánh không ngại nhọc công, đã lần tìm trong kinh tạng, lọc lấy những lời giảng của Thế Tôn về các chủ đề ấy, hệ thống để giới thiệubình luận để làm rõ thêm ý nghĩa của bản kinh, quả là công việc mang lại nhiều lợi lạc cho độc giả. Qua từng trang sách, người học Phật thấy thú vị như mình được chia sẻ bởi những khám phá rất sinh động. Như có người ngoại đạo kia, xem việc hành tịnh thủy sẽ rửa được tội lỗi, khi nghe Phật Thích Ca giảng cho rằng, thực ra, “Chánh pháp là ao hồ/ Giới là bến nước trong/ Không cấu uế, trong sạch/ Được thiện nhơn tán thán/ Là chỗ bậc có trí/ Thường tắm trừ uế tạp/ Khi tay chân trong sạch/ Họ qua bờ bên kia”, thì phát tâm quy y Phật. Người học Phật cũng gỡ dần những lớp vô minh nơi mình bằng sự soi chiếu của ánh sáng từ những bài kinh như vậy. Lành thay.

MỤC LỤC TẬP I
I- LÒNG TIN

1- Lợi ích của lòng tin 12
2- Biểu hiện của lòng tin 14
3- Chánh tín 16
4- Lòng tintài sản tối thượng 18
5- Chỉ tin một người 20
II- BỐ THÍ & CÚNG DƯỜNG
1- Phước báo thù thắng của bố thí 24
2- Bố thí & cúng dường như pháp 26
3- Tương quan giữa cho và nhận 28
4- Bố thí với tâm rộng lớn 30
5- Cội phước 32
6- Bố thí thanh tịnh 34
7- Nhân duyên của giàu và nghèo 36
8- Hai hạng người đáng được cúng dường 38
9- Người cày ruộng 40
10- Xứng đáng là ruộng phước 42
III- LÀM GIÀU
1- Kinh doanh thành công 46
2- Không kinh doanh phi pháp 48
3- Làm giàu 50
4- Giàu lên dễ sanh tật 52
5- Có mắt mà như mù 54
6- Sự nghèo khổ 56
7-Buôn bán phát tài 58
8- Chủ nhân & người làm 60
IV- TÀI SẢN
1- Tài sản của người tu 64
2- Giữ gìn tài sản 66
3- Động sản & bất động sản 68
4- Có tài sản lớn 70
5- Nguyên nhân phung phí tài sản 72
6- Kế thừa gia tài Chánh pháp 74
V- CƯ SĨ
1- Hoa sen trong giới nam cư sĩ 78
2- Người cư sĩ 80
3- Bổn phận người gia chủ 82
4- Cư sĩ chứng quả Dự lưu 84
5- Lật úp bình bát 86
6- Thọ trì năm giới 88
7- Hương đức hạnh 90
8- Những gia đình chư Tăng không nên đến 92
VI- XUẤT GIA
1- Ba hạnh của Sa môn 96
2- Khất sĩ 98
3- Bậc trưởng lão 100
4- Năm hạng người ăn bình bát 102
5- Sống biệt lập 104
6- Không nên sống quá lâu ở một nơi 106
7- Bốn hạng thuyết trình 108
8- Ba việc trọng yếu của người tu 110
9- Xứng đáng được xây tháp 112
10- Xuất gia khi tuổi xế chiều 114
11- Hoàn tục 116
12- Khó làm 118
13- Hóa duyên 120
14- Thiền & Giáo 122
15- Đến với gia chủ 124
VII- HÃY TỰ MÌNH THẮP ĐUỐC LÊN MÀ ĐI
1- Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn 128
2- Tránh xa hai cực đoan 130
3- Dòng đời xuôi ngược 132
4- Sanh tử là việc lớn 134
5- Chớ khinh thường trẻ tuổi 136
6- Nắm lá trong bàn tay 138
7- Hạt muối 140
8- Tinh cần 142
9- Sợ hãi 144
VIII- NHÂN QUẢ
1- Trường thọ & đoản thọ 148
2- Vu khống bậc Thánh 150
3- Đẹp & xấu 152
4- Quả báo 154
5- Hai loại tội 156
6- Khó được ở đời 158
IX- HIẾU ĐẠO
1- Thâm ân nan báo 162
2- Bao la tình mẹ 164
3- Cha mẹ & con cái 166
4- Người thực sự có hiếu không nhiều 168
5- Khuyến hóa cha mẹ hướng thiện 170
6- Phước báo hiếu dưỡng 172
X- GIỚI
1- Rùa & dã can 176
2- Biển lớn không dung chứa tử thi 178
3- Chánh mạng 180
4- Vui trong Chánh pháp 182
5- Mang y bát đẹp bị Phật quở 184
6- Không phòng hộ 186
7- Tội lỗi 188
8- Sống với người thứ hai 190
9- Lợi ích của giữ giới 192
XI- ĐỊNH
1- Sơ thiền 196
2- Tứ niệm xứ 198
3- Mạng người trong hơi thở 200
4- Tâm cấu uế 202
5- Niệm Phật 204
6- Trung đạo 206
7- Đất lành chim đậu 208
8- Ung nhọt 210
XII- TUỆ
1- Trí tuệtối thượng 214
2- Vô minh & tuệ giác 216
3- Chánh tri kiến 218
4- Không phải của tôi 220
5- Tu tập tánh Không 222
6- Người mù sờ voi 224
7- Vô minhcấu uế lớn nhất 226
8- Bọt nước 228
9- Có & Không 230
10- Tàm & quý 232
11- Tuệ giác vô ngã 234

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23964)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41221)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19697)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23993)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21747)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23313)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27507)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26575)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29319)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33199)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20198)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25780)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20916)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31322)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38578)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21444)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44264)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29833)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42218)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22141)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45767)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32113)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23961)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24393)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29281)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33921)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27684)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32136)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21066)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28855)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21585)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28067)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22075)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21441)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19502)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19470)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19837)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19250)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29189)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20627)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28304)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23651)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33188)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21378)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39630)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21552)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19381)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26398)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24831)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21759)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22396)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29135)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22560)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23518)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21241)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35329)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24548)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31344)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant