Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Thứ Ba: Nguyện Thệ

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 11753)
Phẩm Thứ Ba: Nguyện Thệ



PHÁT BỒ ĐỀ TÂM KINH LUẬN
Bồ Tát Thế Thân tạo
Tam Tạng Pháp Sư Cưu La Ma Thập dịch Hán
Tỳ Kheo Thích Nhất Chân dịch Việt

PHẨM THỨ BA
NGUYỆN THỆ

 Bồ Tát làm thế nào để phát được xu hướng về Bồ Đề? Do hạnh nghiệp nào mà thành tựu được Bồ Đề?

Bồ tát phát tâm trụ nơi càn huệ địa, trước hết phải kiên cố mà phát chính nguyện, nhiếp thọ (thâu nhận lấy) hết tất cả vô lượng chúng sinh. “Ta cầu vô thượng Bồ Đề để cứu hộđộ thoát cho họ không còn sót chút nào, và đều cho họ được cứu cánh vô dư Niết Bàn”.

Cho nên khởi thủy phát tâm thời đại bi làm đầu. Do nhờ bi tâm nên có thể phát chuyển mười đại chính nguyện thù thắng. Sao nói là mười?

- Nguyện đời trước của ta và thân hiện tại có bao nhiêu thiện căn trồng được, (xin) đem các thiện căn này thí cho tất cả vô biên chúng sinh, rồi trọn cùng họ hồi hướng về vô thượng Bồ Đề. Khiến sao cho nguyện này của ta mỗi niệm mỗi tăng trưởng. Đời đời sinh ra, (nguyện ấy) thường cột nơi tâm không hề quên mất, được Đà La Ni gìn giữ bảo vệ.

- Nguyện sau khi ta hồi hướng vô thượng Bồ Đề rồi, do thiện căn này mà tất cả nơi nào (ta) sinh ra, thường được cúng dường tất cả chư Phật, vĩnh viễn chắc chắn không sinh vào các quốc độ không có Phật.

- Nguyện sau khi ta được sinh về nước của chư Phật rồi, thì thường được gần gũi theo hầu phải trái như bóng với hình, không một khoảnh khắc sát na nào xa lìa chư Phật.

- Nguyện sau khi ta được gần gũi Phật rồi, thì tuỳ ta cần thiết (chư Phật) thuyết pháp cho ta (và ta) sẽ thành tựu được năm thông của Bồ Tát.

- Nguyện sau khi ta thành tựu năm thông của Bồ Tát rồi, (ta) sẽ có thể thông hiểu thế đế giả danh lưu bố, sẽ thấu tỏ như chân thật tính thuộc đệ nhất nghĩa đế, và đắc được chính pháp trí.

- Nguyện sau khi ta đắc được chính pháp trí rồi, (ta) sẽ dúng tâm không biết chán để thuyết (pháp) cho chúng sinh, chỉ giáo làm họ lợi ích hoan hỉ, và đều làm cho họ được thông hiểu.

- Nguyện sau khi ta đã có thể làm cho chúng sinh thông hiểu rồi, (ta) sẽ dùng Phật thần lực đến khắp không sót một thế giới nào trong mười phương để cúng dường chư Phật, nghe nhận chính pháp, nhiếp rộng các chúng sinh.

- Nguyện sau khi ta đón nhận chính pháp từ nơi chư Phật rồi, (ta) có thể chuyển ngay được pháp luân thanh tịnh. Tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới ai nghe được pháp ta, nghe được danh ta, sẽ lìa bỏ ngay tất cả phiền nãophát tâm Bồ Đề.

- Nguyện sau khi ta có thể làm cho tất cả chúng sinh phát Bồ Đề tâm rồi, (ta) thường theo bảo vệ cho họ, trừ (cho họ) những gì không lợi ích, ban (cho họ) vô lượng an lạc, (ta sẽ) xả bỏ thân mạng tài sản để nhiếp thọ chúng sinhgánh vác chính pháp.

- Nguyện sau khi ta đã có thể gánh vác chính pháp rồi, tuy ta thực hành chính pháp song tâm không hề có hành. Cũng như chư Bồ Tát khi thực hành chính pháp, song không hề thực hành gì hết mà cũng không phải không hành.

Vì để hoá độ chúng sinh mà không bỏ chính nguyện, như thế gọi là mười đại nguyện của phát tâm Bồ Tát.

Mười đại nguyện này trùm hết chúng sinh giới, tóm thâu (nhiếp thọ) tất cả hằng sa các nguyện. “Nếu chúng sinh tận, thì nguyện của ta mới tận. Song chúng sinh thật không thể cùng tận, nên đại nguyện này của ta cũng không có cùng tận”.

Lại nữa, Bố Thí là nhân của Bồ Đề, do vì (bố thí) giữ lấy tất cả các chúng sinh. Trì giới là nhân của Bồ Đề, bởi (trì giới) gồm đủ các thiện thành mãn bổn nguyện. Nhẫn nhục là nhân của Bồ Đề, bởi (nhẫn nhục) thành tựu 32 tướng 80 tuỳ hình đẹp. Tinh tiến là nhân của Bồ Đề, vì (tinh tiến) tăng trưởng thiện hành, đối với các chúng sinh chăm chỉ giáo hoá. Thiền định là nhân của bồ đề, vì (do thiền định), Bồ Tát khéo tự điều phục, có thể rõ biết tâm hành của chúng sinh. Trí huệ là nhân của bồ đề, vì (do trí huệ) có đủ, có thể biết được tính và tướng của các pháp. Tóm yếu mà nói, sáu Ba La Mậtchính nhân Bồ Đề. (Lại gồm thêm) bốn vô lượng tâm, 37 phẩm và các vạn thiện hành cùng tương trợ mà thành.

Nếu Bồ Tát tu tập sáu Ba La Mật thì tuỳ theo sự thật hành của các ngài, (các ngài) sẽ từ từ được gần với A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Các Phật Tử, người cầu Bồ Đề phải không phóng dật. Hành vi phóng dật có thể làm hoại thiện căn. Nếu Bồ Tát chế phục sáu căn được mà không phóng dật, thì người ấy có thể tu được sáu Ba La Mật.

Bồ Tát phát tâm trước tiên phải hết sức chí thành lập thệ quyết định. Người lập thệ rồi ra sẽ không phóng dật, giãi đãi, trì hoãn. Tại sao vậy? Do vì lập thệ quyết định nên có năm duyên trì giữ (lấy mình không cho phóng dật).

  1. Một là có thể làm cho tâm mình kiên cố.
  2. Hai là có thể chế phục được phiền não.
  3. Ba là có thể chặn đứng được phóng dật.
  4. Bốn là có thể phá được năm cái che đậy (ngũ cái).
  5. Năm là có thể siêng năng tu hành sáu Ba La Mật.

Như Phật ca ngợi:

Như Lai Đại Trí Tôn
Nói về công đức chứng,
Lực nhẫn, huệ, phúc nghiệp,
Lực thệ nguyện tối thắng.

Lập thệ ra làm sao? Nếu có người lại cầu xin đủ thứ, lúc ấy ta sẽ tuỳ có (bao nhiêu mà) thí cho, dến mức không sinh một niệm tiếc rẻ trong tâm. Nếu lại sinh tâm ác (dù) chỉ trong khoảng khẩy ngón tay (như) dùng nhân duyên bố thí để được phúc báo thanh tịnh, tức là ta đã khi dối vô lượng vô biên a tăng kỳ hiện tại chư Phật trong mười phương thế giới. Đến đời vị lai (ta) cũng sẽ chắc chắn không thành được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Nếu ta trì giới (cho dù) đến mức mất mạng, (vẫn) xây dựng chắc tâm (giữ giới) thanh tịnh, thề không hề hối tiếc.

Nếu ta tu nhẫn, bị kẻ khác xâm hại đến mức cắt chém, (ta vẫn) thường sinh từ ái, thề không có oán giận ngăn ngại.

Nếu ta tu tinh tiến, (cho dù) gặp phải lạnh nóng, vua giặc, nước lửa, sư tử cọp sói, chốn không nước gạo, thời phải giữ tâm kiên cường thề không thối chuyển.

Nếu ta tu thiền, bị các chuyện bên ngoài quấy nhiễu không cho nhiếp tâm, thì cần phải trói niệm vào cảnh, thề không tạm khởi phi pháp loạn tưởng.

Nếu ta tu tập trí huệ, quán như thật tính của tất cả các pháp, tuỳ thuận (theo pháp mà) thọ trì. Đối với các pháp thiện, bất thiện, hữu vi, vô vi, sinh tử, Niết Bàn, không khởi lên cái thấy làm hai. Nếu tâm ta hối oán ngăn ngại thoát thất loạn tưởng, mà khởi lên thầy làm hai, (dù chỉ) như trong khoảng khảy móng tay mà dùng giới, nhẫn, tinh tiến, thiền, trí để cầu (phúc) báo thanh tịnh, tức ta đã khi dối vô lượng vô biên a tăng kỳ hiện tại chư Phật trong mười phương thế giới. Đến đời vị lai (ta) cũng sẽ chắc chắn sẽ không thành được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Bồ tát mười đại nguyện trì giữ việc thật hành chính pháp, dùng sáu đại thệ để chế ngự tâm phóng dật, thì sẽ có thể tinh cần tu tập sáu Ba La Mật, thành được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31347)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26230)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27537)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27930)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26727)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31245)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20282)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22968)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30079)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21596)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20283)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22684)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20783)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30339)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28802)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34746)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44249)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35541)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22565)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21386)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20701)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24772)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37937)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19074)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19354)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21849)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20889)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29535)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35164)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28842)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32621)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26235)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28941)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43167)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34979)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43958)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37924)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21342)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43040)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49029)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39863)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53801)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36834)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40829)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49743)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47332)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27746)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27038)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27245)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24081)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20865)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34327)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22487)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25137)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25861)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22966)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22477)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21769)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23329)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21193)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant