Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Thứ Ba: Nguyện Thệ

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 11751)
Phẩm Thứ Ba: Nguyện Thệ



PHÁT BỒ ĐỀ TÂM KINH LUẬN
Bồ Tát Thế Thân tạo
Tam Tạng Pháp Sư Cưu La Ma Thập dịch Hán
Tỳ Kheo Thích Nhất Chân dịch Việt

PHẨM THỨ BA
NGUYỆN THỆ

 Bồ Tát làm thế nào để phát được xu hướng về Bồ Đề? Do hạnh nghiệp nào mà thành tựu được Bồ Đề?

Bồ tát phát tâm trụ nơi càn huệ địa, trước hết phải kiên cố mà phát chính nguyện, nhiếp thọ (thâu nhận lấy) hết tất cả vô lượng chúng sinh. “Ta cầu vô thượng Bồ Đề để cứu hộđộ thoát cho họ không còn sót chút nào, và đều cho họ được cứu cánh vô dư Niết Bàn”.

Cho nên khởi thủy phát tâm thời đại bi làm đầu. Do nhờ bi tâm nên có thể phát chuyển mười đại chính nguyện thù thắng. Sao nói là mười?

- Nguyện đời trước của ta và thân hiện tại có bao nhiêu thiện căn trồng được, (xin) đem các thiện căn này thí cho tất cả vô biên chúng sinh, rồi trọn cùng họ hồi hướng về vô thượng Bồ Đề. Khiến sao cho nguyện này của ta mỗi niệm mỗi tăng trưởng. Đời đời sinh ra, (nguyện ấy) thường cột nơi tâm không hề quên mất, được Đà La Ni gìn giữ bảo vệ.

- Nguyện sau khi ta hồi hướng vô thượng Bồ Đề rồi, do thiện căn này mà tất cả nơi nào (ta) sinh ra, thường được cúng dường tất cả chư Phật, vĩnh viễn chắc chắn không sinh vào các quốc độ không có Phật.

- Nguyện sau khi ta được sinh về nước của chư Phật rồi, thì thường được gần gũi theo hầu phải trái như bóng với hình, không một khoảnh khắc sát na nào xa lìa chư Phật.

- Nguyện sau khi ta được gần gũi Phật rồi, thì tuỳ ta cần thiết (chư Phật) thuyết pháp cho ta (và ta) sẽ thành tựu được năm thông của Bồ Tát.

- Nguyện sau khi ta thành tựu năm thông của Bồ Tát rồi, (ta) sẽ có thể thông hiểu thế đế giả danh lưu bố, sẽ thấu tỏ như chân thật tính thuộc đệ nhất nghĩa đế, và đắc được chính pháp trí.

- Nguyện sau khi ta đắc được chính pháp trí rồi, (ta) sẽ dúng tâm không biết chán để thuyết (pháp) cho chúng sinh, chỉ giáo làm họ lợi ích hoan hỉ, và đều làm cho họ được thông hiểu.

- Nguyện sau khi ta đã có thể làm cho chúng sinh thông hiểu rồi, (ta) sẽ dùng Phật thần lực đến khắp không sót một thế giới nào trong mười phương để cúng dường chư Phật, nghe nhận chính pháp, nhiếp rộng các chúng sinh.

- Nguyện sau khi ta đón nhận chính pháp từ nơi chư Phật rồi, (ta) có thể chuyển ngay được pháp luân thanh tịnh. Tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới ai nghe được pháp ta, nghe được danh ta, sẽ lìa bỏ ngay tất cả phiền nãophát tâm Bồ Đề.

- Nguyện sau khi ta có thể làm cho tất cả chúng sinh phát Bồ Đề tâm rồi, (ta) thường theo bảo vệ cho họ, trừ (cho họ) những gì không lợi ích, ban (cho họ) vô lượng an lạc, (ta sẽ) xả bỏ thân mạng tài sản để nhiếp thọ chúng sinhgánh vác chính pháp.

- Nguyện sau khi ta đã có thể gánh vác chính pháp rồi, tuy ta thực hành chính pháp song tâm không hề có hành. Cũng như chư Bồ Tát khi thực hành chính pháp, song không hề thực hành gì hết mà cũng không phải không hành.

Vì để hoá độ chúng sinh mà không bỏ chính nguyện, như thế gọi là mười đại nguyện của phát tâm Bồ Tát.

Mười đại nguyện này trùm hết chúng sinh giới, tóm thâu (nhiếp thọ) tất cả hằng sa các nguyện. “Nếu chúng sinh tận, thì nguyện của ta mới tận. Song chúng sinh thật không thể cùng tận, nên đại nguyện này của ta cũng không có cùng tận”.

Lại nữa, Bố Thí là nhân của Bồ Đề, do vì (bố thí) giữ lấy tất cả các chúng sinh. Trì giới là nhân của Bồ Đề, bởi (trì giới) gồm đủ các thiện thành mãn bổn nguyện. Nhẫn nhục là nhân của Bồ Đề, bởi (nhẫn nhục) thành tựu 32 tướng 80 tuỳ hình đẹp. Tinh tiến là nhân của Bồ Đề, vì (tinh tiến) tăng trưởng thiện hành, đối với các chúng sinh chăm chỉ giáo hoá. Thiền định là nhân của bồ đề, vì (do thiền định), Bồ Tát khéo tự điều phục, có thể rõ biết tâm hành của chúng sinh. Trí huệ là nhân của bồ đề, vì (do trí huệ) có đủ, có thể biết được tính và tướng của các pháp. Tóm yếu mà nói, sáu Ba La Mậtchính nhân Bồ Đề. (Lại gồm thêm) bốn vô lượng tâm, 37 phẩm và các vạn thiện hành cùng tương trợ mà thành.

Nếu Bồ Tát tu tập sáu Ba La Mật thì tuỳ theo sự thật hành của các ngài, (các ngài) sẽ từ từ được gần với A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Các Phật Tử, người cầu Bồ Đề phải không phóng dật. Hành vi phóng dật có thể làm hoại thiện căn. Nếu Bồ Tát chế phục sáu căn được mà không phóng dật, thì người ấy có thể tu được sáu Ba La Mật.

Bồ Tát phát tâm trước tiên phải hết sức chí thành lập thệ quyết định. Người lập thệ rồi ra sẽ không phóng dật, giãi đãi, trì hoãn. Tại sao vậy? Do vì lập thệ quyết định nên có năm duyên trì giữ (lấy mình không cho phóng dật).

  1. Một là có thể làm cho tâm mình kiên cố.
  2. Hai là có thể chế phục được phiền não.
  3. Ba là có thể chặn đứng được phóng dật.
  4. Bốn là có thể phá được năm cái che đậy (ngũ cái).
  5. Năm là có thể siêng năng tu hành sáu Ba La Mật.

Như Phật ca ngợi:

Như Lai Đại Trí Tôn
Nói về công đức chứng,
Lực nhẫn, huệ, phúc nghiệp,
Lực thệ nguyện tối thắng.

Lập thệ ra làm sao? Nếu có người lại cầu xin đủ thứ, lúc ấy ta sẽ tuỳ có (bao nhiêu mà) thí cho, dến mức không sinh một niệm tiếc rẻ trong tâm. Nếu lại sinh tâm ác (dù) chỉ trong khoảng khẩy ngón tay (như) dùng nhân duyên bố thí để được phúc báo thanh tịnh, tức là ta đã khi dối vô lượng vô biên a tăng kỳ hiện tại chư Phật trong mười phương thế giới. Đến đời vị lai (ta) cũng sẽ chắc chắn không thành được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Nếu ta trì giới (cho dù) đến mức mất mạng, (vẫn) xây dựng chắc tâm (giữ giới) thanh tịnh, thề không hề hối tiếc.

Nếu ta tu nhẫn, bị kẻ khác xâm hại đến mức cắt chém, (ta vẫn) thường sinh từ ái, thề không có oán giận ngăn ngại.

Nếu ta tu tinh tiến, (cho dù) gặp phải lạnh nóng, vua giặc, nước lửa, sư tử cọp sói, chốn không nước gạo, thời phải giữ tâm kiên cường thề không thối chuyển.

Nếu ta tu thiền, bị các chuyện bên ngoài quấy nhiễu không cho nhiếp tâm, thì cần phải trói niệm vào cảnh, thề không tạm khởi phi pháp loạn tưởng.

Nếu ta tu tập trí huệ, quán như thật tính của tất cả các pháp, tuỳ thuận (theo pháp mà) thọ trì. Đối với các pháp thiện, bất thiện, hữu vi, vô vi, sinh tử, Niết Bàn, không khởi lên cái thấy làm hai. Nếu tâm ta hối oán ngăn ngại thoát thất loạn tưởng, mà khởi lên thầy làm hai, (dù chỉ) như trong khoảng khảy móng tay mà dùng giới, nhẫn, tinh tiến, thiền, trí để cầu (phúc) báo thanh tịnh, tức ta đã khi dối vô lượng vô biên a tăng kỳ hiện tại chư Phật trong mười phương thế giới. Đến đời vị lai (ta) cũng sẽ chắc chắn sẽ không thành được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Bồ tát mười đại nguyện trì giữ việc thật hành chính pháp, dùng sáu đại thệ để chế ngự tâm phóng dật, thì sẽ có thể tinh cần tu tập sáu Ba La Mật, thành được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29897)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21770)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22233)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23605)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24757)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18990)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24766)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30977)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23992)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27765)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26516)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21321)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23231)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38138)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18802)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19978)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19050)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23173)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23887)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22816)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22917)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29583)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20646)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18711)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15848)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18863)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19685)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20159)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19956)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18127)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22944)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34168)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16424)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16920)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39255)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26080)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20099)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18859)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24066)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29146)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22904)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30967)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21012)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26857)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26268)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23327)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19820)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24685)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30047)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20227)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20408)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15840)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23903)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant