Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Thứ Sáu: Sằn Đề Ba La Mật

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 12992)
Phẩm Thứ Sáu: Sằn Đề Ba La Mật


PHÁT BỒ ĐỀ TÂM KINH LUẬN
Bồ Tát Thế Thân tạo
Tam Tạng Pháp Sư Cưu La Ma Thập dịch Hán
Tỳ Kheo Thích Nhất Chân dịch Việt

PHẨM THỨ SÁU
SẰN ĐỀ BA LA MẬT

 Bồ Tát tu hành nhẫn nhục như thế nào? Nhẫn nhục nếu là vì để tự lợi, lợi tha, cả hai cùng lợi, nhẫn nhục như thế thì sẽ có thể trang nghiêm được đạo Bồ Đề.

Bồ Tát vì muốn điều phục chúng sinh khiến họ lìa xa khổ não nên mới tu nhẫn nhục. Tu nhẫn nhục là tâm thường khiêm hạ đối với tất cả chúng sinh. Cương cường, kiêu mạn, xả hết không hành. Thấy kẻ thô ác thì khởi tâm thương tưởng. Lời lẽ thường mềm mại, khuyến hoá (chúng sinh) tu thiện. Có thể phân biệt nói rõ về sự sai khác giữa quả báo của hoà nhẫn và sân hận. Như thế gọi là sơ tâm nhẫn nhục của Bồ Tát.

Do tu nhẫn nhục nên lìa xa các ác pháp, thân tâm được an lạc, như thế gọi là tự lợi. Dẫn dắt giáo hoá chúng sinh đều khiến cho họ được hoà thuận, như thế gọi là lợi tha. Đem đại nhẫn vô thượng do chính mình tu ra giáo hoá các chúng sinh khiến họ có được lợi ích giống như chính mình, như thế gọi là cùng lợi. Nhân tu nhẫn nhụcđạt được đoan chính, được người tôn trọng, cho đến được các tướng đẹp thượng diệu của Phật, như thế gọi là trang nghiêm đạo Bồ Đề.

Nhẫn nhục có ba, chính là thân, khẩu, ý. Thế nào là thân nhẫn ? nếu người khác phát ác xâm phạm đánh đập mình đến mức gây thương hại, trọn đều có thể nhẫn chịu. Thế nào là khẩu nhẫn? Nếu gặp ai mắng chửi mình, im lặng chịu không mắng trả lại. Nếu gặp kẻ đến trách mắng một cách phi lý thì phải nhỏ nhẹ chiều theo. Nếu có kẻ nào lại còn vu cáo ngang ngạnh phỉ báng, thời đều phải nhẫn thọ, như thế gọi là khẩu nhẫn. Thế nào là ý nhẫn ? Gặp kẻ tức giận mình, tâm không mang hận, nếu có ai đụng chạm làm phiền, tâm mình không loạn. Nếu có ai chỉ trích, tâm cũng không oán, như thế gọi là ý nhẫn.

Những kẻ ra tay đánh (người) trong thế gian này có hai loại, một là (đúng) thật, hai là ngang (tàng). Nếu (mình) có tội lỗi, và nếu người ta hiềm nghi, (rồi) bị người ấy đánh, thì tự mình phải nhẫn chịu như uống cam lồ. Đối với người ấy phải sinh lòng cung kính, tại sao như thế? Bởi (người ấy) khéo có thể răn dạy điều phục được ta, khiến ta lìa xa được các tội lỗi. Nếu (kẻ nào) ngang ngạnh còn thêm ác tâm gây đả thương ta, thời phải tự tư duy: “Ta nay không có tội, như thế phải là túc nghiệp quá khứ đưa lại”. Như thế cũng nên phải nhẫn. Lại phải suy nghĩ : “Bốn đại giả hợp, năm chúng duyên hội, ai là người bị đánh đây?”. Lại quán người trước mặt (đang đánh mình) như si như cuồng, ta nên thương họ. Tại sao lại không nhẫn?

Lại mắng chửi cũng có hai loại: một là (đúng) thật, hai là hư (dối). Nếu lời (mắng) nói đúng thật thì ta phải sinh hổ thẹn. Nếu lời (mắng) nói hư dối thì đâu can dự gì đến chuyện của ta, nó y như âm vang hay như gió thoảng qua không tổn hại gì đến ta hết, cho nên nên nhẫn.

Lại kẻ sân cũng thế. Họ đến sân hận với ta, ta phải nhẫn chịu. Nếu ta sân (lại) với họ, thì đời vị lai sẽ đọa ác đạo chịu khổ não hơn. Do nhân duyên này, thân ta nếu bị chém cắt đứt lìa cũng không được nổi sân, mà cần phải quán sâu về nhân duyên nghiệp quá khứ, và hãy tu từ bi thương tưởng tất cả (chúng sinh). Cái khổ nhỏ như thế mà còn không thể nhẫn được, thì ta sẽ không thể tự điều phục được tâm, rồi làm sao lại có thể điều phục được chúng sinh, khiến họ giải thoát được tất cả các ác pháp, thành quả vô thượng?

Nếu người có trí thích tu nhẫn nhục, người này thường có được diện mạo đoan chính, có nhiều tài bảo, ai thấy cũng hoan hỉ, ngưỡng kính, phục tùng. Lại phải quán sát: Nếu có người nào thân hình tàn tật, nhan sắc xấu xa, các căn không đủ, thiếu thốn tài vật, phải biết đó đều là do nhân duyên sân mà nên. Do nhân duyên ấy, người trí phải nên tu sâu nhẫn nhục.

Có mười nhân duyên làm phát sinh nhẫn:

  1. một là không quán tướng ngã và ngã sở,
  2. hai là không nhớ đến (niệm) dòng tộc,
  3. ba là phá trừ kiêu mạn,
  4. bốn là ác đến không báo trả,
  5. năm là quán tưởng vô thường,
  6. sáu là tu từ bi,
  7. bảy là tâm không phóng dật,
  8. tám là xả bỏ các việc đói khát, khổ sướng v.v…
  9. chín là đoạn trừ sân hận,

10. mười là tu tập trí huệ.

Nếu ai thành được mười sự thể ấy, phải biết người ấy có thể tu nhẫn nhục được. Bồ Tát Ma Ha Tát khi tu thanh tịnh tất cánh nhẫn, nếu nhập vào KHÔNG, vô tướng, vô nguyện, vô tát, sẽ không hoà hợp cùng với kiến, giác, nguyện, tác (cũng) không cậy bám vào, vô KHÔNG tướng, vô nguyện, vô tác. Các kiến, giác, nguyện, tác này đều là KHÔNG. Nhẫn KHÔNG như thế là không có hai tướng, được gọi là thanh tịnh tất cánh nhẫn vậy. Nếu nhập vào tận kết, hoặc nhập tịch diệt, không hoà hợp với kết và sinh tử, cũng không cậy vào tận kết và tịch diệt. Các kết và sinh tử đều là KHÔNG. Nhẫn như thế là không có hai tướng, được gọi là thanh tịnh tất cánh nhẫn vậy. Nếu tính không tự sinh, không do tha sinh, không phải hoà hợp sinh, cũng không có xuất (hiện ra), không thể phá hoại. Cái không thể hoại thời không thể tận. Nhẫn như thế là không có hai tướng, thời gọi là thanh tịnh tất cánh nhẫn vậy. Không có tác (hay) phi tác, không có gì để cậy bám, không phân biệt, không trang nghiêm, không tu trị, không phát triển. Rốt cuộc không tạo sinh. nhẫn như thế là vô sinh nhẫn. Bồ Tát tu hành nhẫn này như thế, sẽ được thọ ký (về) nhẫn. Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành nhẫn nhục tính, tướng đều KHÔNG, bởi không có chúng sinh vậy. Như thế sẽ đầy đủ hết Sằn Đề Ba La Mật.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15788)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11093)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53698)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13008)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16547)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15422)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19182)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19960)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15581)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15367)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15161)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20371)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23989)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15514)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13066)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20175)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13303)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29036)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11731)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18326)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16660)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13265)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12826)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13276)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13010)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12904)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13033)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13567)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11739)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14264)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17763)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22642)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13473)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14357)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105819)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14625)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19813)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38453)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15554)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34716)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16083)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11372)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15688)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14051)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12849)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13733)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12530)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19400)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27050)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13167)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13502)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21634)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 18001)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21938)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14237)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16093)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16170)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19145)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24807)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant