Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12.02. Phảm Kim Tỳ La Thiên Thọ Ký Thứ Hai

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8291)
12.02. Phảm Kim Tỳ La Thiên Thọ Ký  Thứ Hai
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XII
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI

Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Huyền Trang
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

02. Phảm Kim Tỳ La Thiên Thọ
Thứ Hai

(Hán bộ đầu quyển 36 )

 Ở giữa đường , đức Thế Tôn làm cho chư Trưởng Giả chứng nhập thánh quả,dùng oai thế Như Lai mà vào thành Vương Xá, bốn chúng vây quanh oai nghi nghiêm chỉnh.
 Lúc ấy trong hàng chư Thiên Thần Dạ Xoa thủ hộ thành Vương Xá có Đại thiện thần Vương hiệu là Kim Tỳ La nghĩ rằng : nay đức Như Lai hình tướng rất lạ, là bực tốI thắng trong thế gian khó được gặp , đáng được sự cúng dường của Trời ,của Người.Chúng ta hôm nay phảI mang những món cúng thượng diệu dâng lên đức Như Lai.
 Suy nghĩ xong, Kim tỳ La Vương đem thức uống ăn tốI thắng đầy đủ hương vị diệu sắc trọn vẹn dâng lên đức Phật.
 Đức Thế Tôn thương sự hiến dâng ấy nên nạp thọ.
 Lúc ấy ,sáu muôn tám ngàn Đại dược xoa của Kim Tỳ La Vương thống lãnh ở trên hư không đều sanh lòng tùy hỉ dùng âm thanh thanh viễn xường rằng : lành thay,lành thay!
 Kim Tỳ La Vương bảo chúng Dạ Xoa rằng : “ Ta đã dâng lên đức Phật những món cúng vi diệu .Các người cũng nên đem món cúng dường hiến cho chư Tỳ Kheo tăng. Do đó các ngươi sẽ được lợi ích an lạc mãi mãi”.
 Chúng Dạ Xoa tuân lờI truyền dạy của Thần Vương đem món ăn thượng vị cúng dâng cho chư Tỳ Kheo Tăng.
 Chư Tăng xót thương nhận lấy đồ cúng ấy.
 Đức Thế Tônkhất thực mà vào thành Vương Xá .Khất thực xong, đức Phật trở về chỗ cũ.
 Có vô lượng ngàn chúng Thiên ,Long, Dạ Xoa, Càn Thát bà , A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La , Ma Hầu La Già , cùng vô lượng ngàn nhơn và phi nhơn ,vô luợng câu na do tha trăm ngàn chúng sanh khác đồng tùy tùng theo sau đức Phật.
 Bấy giờ đức Như Lai về đến chỗ tối thắng rộng rãi trải tọa cụ rồi ngồi như thường ngày.
 Kim Tỳ La Vương và bộ thuộc đem những hoa trời ,hoa mạn đà la ,hoa mạn thù sa , hoa ưu bát la, hoa bát đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi, cũng đem các thứ hương bột cọi trời rải trên đức Phật để cúng dường rồi chắp tay kính lễ đức Phật.Lễ Phật xong, chư Thần Vương đứng yên trước đức Phật.
 Đức Phật biết rõ tâm niệm của Kim Tỳ La Vương và bộ thuộc nên liền mỉm cười .
 Theo pháp thường của chư Phật mỗi khi mỉm cườI thì từ diện môn phóng ra nhiều thứ ánh sáng có vô lượng màu sắc , như là màu sáng xanh vàng đỏ trắng, màu sáng hồng , sáng vàng, sáng bạc, sáng màu thủy tinh. Ánh sáng ấy chiếu khắp vô lượng vô biên tất cả thế giớI che khuất cả ánh sáng mặt trời mặt trăng, dưới chiếu thấu địa ngục làm cho chúng sanh địa ngục vui vẻ, trên chiếu suốt trời Phạm Thế. Công việc chiếu soi đã xong, các ánh sáng ấy quay trở lạI vòng quanh đức Phật bảy lần, rồi hoặc rót vào đảnh đức Phật, hoặc rót vào hai vai hai gốI đức Phật.
 Theo pháp thường của chư Phật, lúc thọ ký cho chúng sanh địa ngục thì ánh sáng rót vào dướI hai bàn chưn đức Phật, nếu thọ ký cho súc sanh thì quang minh rót vào lưng đức Phật,nếu thọ ký cho loài quỷ thì quang minh rót vào trước bụng đức Phật, nếu thọ ký cho loài ngườI thì quang minh rót vào hông bên tả đức Phật,nếu thọ ký cho loài TrờI thì quang minh rót vào hông bên hữu đức Phật,nếu thọ ký cho bực Thanh Văn thì quang minh rót vào hai gốI đức phật, nếu thọ ký cho bực Độc Giác thì quang minh rót vào hai vai đức Phật,nếu lúc thọ ký cho chư đại Bồ Tát sẽ thành Vô thượng Chánh giác thi quang minh rót vào đỉnh đầu đức Phật.
 Trưởng Lão A Nan Đà thấy đức Thế Tôn mỉm cườI phóng quang ,Ngài liền trịch y thất điều vai hữu ,gốI hữu chấm đất chắp tay lễ chưn đức Phật rồI nói kệ bạch Phật :
 “Đấng soi sáng thế gian
 Cớ gì phóng quang minh
 Đấng lợi ích thế gian
 Cớ gì hiện mỉm cườI
 Nay ai gieo giống Thánh
 Làm nhơn Phật Bồ đề
 Nay thọ ký cho ai
 Ai đáng được giảI thoát
 ĐạI Đạo Sư hùng mãnh
 Chẳng vô cớ mà cườI
 Nguyện Mâu Ni sẽ nói
 Duyên cớ phóng quang minh ».
 Đức Thế Tôn liền nói kệ đáp Ngài A Nan :
 « Kim Tỳ La tịnh tâm
 Dâng những đồ cúng dường
 Cho đấng cứu thế gian
 Nên ta khiện mỉm cườI
 Báo Thần Vương hết rồI
 Sanh lên trời Đao LợI
 Hưởng mãn phước trời ấy
 Sanh lên trờI Dạ Ma
 Rồi lại sanh Đâu Suất
 Hưởng báo vui cõi Trời
 Mãn phước sanh loài người
 Làm bực vua trí huệ
 Cai quản vua bốn châu
 Tự tại Chuyển Luân Vương
 Mãn báo nhơn vương rồi
 Sanh lên trời Phạm Thế
 Trên trời và nhơn gian
 Luôn qua lại chẳng ngớt
 Thường hưởng thọ diệu lạc
 Hai mươi câu chi kiếp
 ^Rất sau bỏ nghôi vua
 Xuất gia cầu Phật đạo
 Đủ các thiện duyên rồi
 Thành Vô thượng Bồ đề
 Ba muôn chúng Dược Xoa
 Do dâng cúng đức Phật
 Bỏ báo Dược Xoa xong
 Sanh lên trờI Đao LợI
 Sau gặp Phật Di Lặc
 Được quả A La Hán
 Đã được truyền đạo hóa
 Liền gọi cúng dường Phật
 Cả chúng Dược Xoa ấy
 Vì an trụ Bồ đề
 Do nơi căn lành ấy
 Chẳng sanh các ác đạo
 Hoặc có ngàn Dược Xoa
 Thường cúng dường chư Phật
 Cầu Vô thượng Bồ đề
 Để lợI ích chúng sanh
 Hoặc hai ngàn ba ngàn
 Cầm hương hoa vòng hoa
 Sẽ cúng dường chư Phật
 Để được Phật Bồ đề
 Hoặc có nhiều câu chi
 Sẽ cúng dường chư Phật
 Tu tự tánh thanh tịnh
 Sau chứng đạI Bồ đề
 Kim Tỳ La Thần Vương
 Đủ sức đạI thần thông
 Cũng phát nguyện rộng lớn
 Tôi sẽ thành Chánh Giác
 Từng cúng dường chư Phật
 Phát đủ những hoằng thệ
 Nay lạI cúng dường ta
 Hướng đến đạo vô thượng
 Do sức thiện căn ấy
 Bỏ rờI các ác đạo
 Sẽ gặp Phật Di Lặc
 LạI dâng nhiều lọng báu
 Dâng nhiều lọng báu rồI
 LạI dâng nhiều y báu
 Dâng nhiều y phục rồI
 Liền bỏ nhà xuất gia
 Tròn đủ năm trăm năm
 Chuyên tu hành phạm hạnh
 Cầu tốI thượng Bồ đề
 Để lợI ích chúng sanh
 Vì thành tựu nguyện ấy
 Nên tu hành lục độ
 Suốt hằng hà sa kiếp
 Thường chuyên cần chẳng nghỉ
 A Nan ông phảI biết
 Vì thị hiện mà nói
 Hạnh thù thắng của họ
 Lại thêm quá số trên
 Như đã nói ví dụ
 Số kiếp hằng hà sa
 Được thấy chư Phật kia
 Sẽ cúng dường to lớn
 Lạ thay trí thắng diệu
 Lạ thay tâm vô thượng
 Các chúng ĐạI Đạo Sư
 Danh xưng chẳng gọI được
 Sau sẽ thành Chánh giác
 Như Lai Phật Thế Tôn
 Hiệu Ngài là Y Vương
 Vang khắp mười phưong cõi
 Bảy mươi câu chi năm
 Thuyết pháp độ chúng sanh
 Đấng Lưỡng Túc Tôn ấy
 Lâu sẽ nhập tịch diệt
 Thuyết pháp hai mươi hội
 Điều phục tâm chúng sanh
 Một đại hội tối hậu
 Trọn hai trăm ức năm
 Những đại hội đã nói
 Độ vô lượng Thanh Văn
 Như số lượng Thanh Văn
 Chúng Bồ tát cũng vậy
 LợI ích chúng sanh xong
 Phật mớI nhập Niết Bàn
 Chánh pháp trụ thế gian
 TrảI qua trăm ngàn năm
 Suốt trong năm trăm kiếp
 Tỳ Kheo ấy thành Phật
 Nơi mỗI mỗI kiếp ấy
 Ngàn đức Phật xuất hiện
 Những ngườI có trí huệ
 PhảI suy gẫm pháp thủy
 PhảI phát tâm dũng mãnh
 Hành đa văn chánh lý
 PhảI tu tập đa văn
 Do đây lớn trí huệ
 Bốn pháp nghĩa căn bổn
 Tế độ các Bồ Tát
 Là thí,giớI,văn, xả
 Đường Bồ đề hiền thiện
 Vì chúng nói pháp nầy
 Thừa vô thượng tối thắng
 Khai diễn đạo Thanh Văn
 Khéo dứt các lướI nghi
 Những ai có thỉnh hỏI
 Nay ta đều hứa khả
 Đấng chiếu thế khó gặp
 Hay nói pháp thâm diệu”.
 Kim Tỳ La Vương ở trước đức Phật được nghe thọ ký hớn hở vui mừng được chưa từng có ,nghĩ rằng : nay đức Thế Tôn sẽ lên núi Linh Thứu .Tôi phảI vun trồng chút í căn lành nơi đức Phật.
 Suy nghĩ xong ,Kim Tỳ La Vương bảo bộ thuộc rằng : “ Chúng ngươi nên biết rằng đức Như Lai sẽ lên núi Linh Thứu.Chúng ngươi phài tâm dũng mãnh tùy theo khả năng của mình mà sắm sửa cúng dường”.
 Liền đó Thần Vương cùng bộ thuộc rờI thành Vương Xá thẳng đến núi Linh Thứu, toàn con đường chặng giữa đều dọn hết cỏ rác gai góc ngói gạch sỏI đá,khắp nơi sạch sẽ như mặt gương sáng.Chúng Thần lạI rướI nước thơm rồI lót thảm tốt cùng rảI hoa đẹp khắp con đường ,xông hương thơm dọv theo bên dường và dựng những tráng phan, treo những bửu cái ,trên cao giăng che vớI những lụa màu,rồI lạI trổI những âm nhạc trờI .Con đường ấy rất rộng bằng suốt một lằn tên.Khắp nơi theo hai bên đường che rợp vớI những loài hoa mọc dướI nước như các thứ sen xanh vàng đỏ trắng, xen trong hoa sen có những chim đẹp như uyên ương. Dùng lụa màu dệt bằng chỉ vàng ròng trảI lên mặt đường, trên đó lạI trảI lướI bảy báu.
 Kim Tỳ La Vương trần thiết trang nghiêm con đường đức Phật sẽ đi qua xong, liền tự biến hóa thân mình rất cao lớn, cùng các bộ thuộc hớn hở vui mừng phát những tâm thù thắng như :
 Tâm sướng thích, tâm điều thiện, tâm nhu nhuyến,tâm thanh tịnh, tâm ly cái,ntâm sung mỹ, tâm quy y Phật,tâm quy y Pháp, tâm quy y Tăng, tâm Bồ đề bất động, tâm bất thốI chuyển,tâm vô đẳng ,tâm vô đẳng đẳng, tâm siêu tam giớI, tâm đạI từ,tâm đạI bi đốI vớI tất cả chúng sanh, tâm đạI hỉ,tâm đâi xả,tâm Phật pháp khí,tâm kiên ,tâm cố,tâm bất khả hoạI,tâm bất hủ bạI, tâm rờI bỏ bực Thanh VănĐộc Giác,tâm thành lập Bồ Tát địa.
 Phát và an trụ trong những tâm nguyện ấy ,chư Thần Vương đến chỗ đức Như Lai đảnh lễ chưn đức Phật đi nhiễu ba vòng đứng qua một bên chắp tay nói kệ bạch đức Phật rằng :
 “ Tôi đã vì Thế Tôn
 Sắm đồ cúng vô thượng
 Phật là đấng tôn quý
 Diễn nói pháp vô thượng
 Thập lực đều thành tựu
 An trụ các vô úy
 Những sự lợI chúng sanh
 Như Đạo Sư đã làm
 Phật đủ băm hai tướng
 Tám mươi tùy hình hảo
 ĐờI nhờ như mặt trờI
 Chiếu sáng khắp thế gian
 Chuyển vi diệu pháp luân
 MườI hai hành tốI thắng
 Tuyên bố pháp sâu diệu
 LợI ích các chúng sanh
 Hiển thị các thần biến
 Như nghi thức của Phật
 Vì nhiều câu chi chúng
 Mà làm sự lợI ích
 Vị lai chư ĐạI Hùng
 Giúp đờI như mặt nhựt
 Tuyên dương thánh pháp ấy
 Giác ngộ thành Vô Thượng
 Làm nhà làm thuyền bè
 Làm đường làm nẻo về
 Vì các chúng sanh manh
 Bố thí cho huệ nhãn
 Năm loài các chúng sanh
 Tôi sẽ làm chỗ dựa
 GiảI thoát các sự khổ
 Như chư Phật đã lià
 Tôi làm Lưỡng Túc Tôn
 Là trờI trong các trờI
 Thiên Đế, chúng Long Thần
 A Tu La thờ kính
 Sắm sửa đồ cúng dường
 Trong đời không gì bằng
 Tôi tạo nghiệp thượng diệu
 Không có ai tương tợ
 Như Pháp Vương Thế Tôn
 Đủ ba mươi hai tướng
 Tám mươi tướng phước diệu
 ĐờI không ai sánh kịp”.
 Đức Thế TônKim Tỳ La Vương mà nói kệ rằng :
 “Các ngườI cúng dường Phật
 Làm pháp nhơn tốI thượng
 Thù thắng trong hữu tình
 Chẳng khó được Bồ đề
 Cúng dường đấng Thế Tôn
 Chiếu sáng đờI nương theo
 Bực đáng được cúng dường
 Của TrờI, Rồng và NgườI
 Ngộ Bồ đề thượng diệu
 NgồI đạo thọ tốI thắng
 Dẹp trừ các ác ma
 Vì chúng sanh thuyết pháp ».
 Lúc bấy giờ đức Như Lai ở giữa đạI chúng dùng đạI oai đức, đạI thần thông, đạI tông thế và các thứ đạI tự tạI biến hóa mà phóng đạI quang minh chấn động cả đạI địa,hoa sen lớn mưa xuống khắp hư không ,trăm ngàn na do tha câu chi nhạc trờI đồng hòa tấu.Cả đạI chúng đều được chưa từng có,thấy thần biến ấy lạI càng kíng ngưỡng đức Phật hơn.
 Đức Như Lai chưn bước trên hoa sen lớn như bánh xe theo đường đã trang nghiêm mà đến núi Linh Thứu. Đến núi rồI, đức Phật bảo Ngài A Nan rằng : “Ông vì đức Như Laisắp đặt bửu tọa thù thắng,ta sẽ ngồI trên ấy vì muốn lợI ích cho tất cả chúng sanh mà nói kinh đạI thừa Bồ Tát hạnh sở nhơn tên là Vi Diệu Cát Tường Bồ Tát Tạng.Kinh ấy có thể làm cho núi nghi ngờ của tất cả chúng sanh lở sụp.Kinh ấy có thể làm cho lướI nghi ngờ của tất cả chúng sanh đứt tuyệt.Kinh ấy có thể làm cho gốc nghi ngờ của tất cả chúng sanh chẳng mọc được.Vì kinh đạI thừa ấy lợI ích an lạc các chúng sanh, ta vì thương xót đạI chúng và hàng thiên nhơn nên mớI mở dạy”.
 Ngài A Nan y theo lờI đức Phậtsắp đặt pháp tọa.Trong đạI chúng sáu mươi tám câu chi Thiên Tử cởI thượng y mà trảI trên pháp tọa.
 Đức Phật như thường lệ ngồI lên pháp tọa ngó chư Thiên Tử mà nói kê( rằng :
 “Chư Thiên trảI y phục
 Tối thắng thượng vi diệu
 Đại Đạo Sư cứu thế
 Ngồi yên trên pháp tọa
 Đến bờ kia cáp pháp
 Như Lai lên ngồi rồi
 Đại địa động sáu cách
 Khiến chúng đều vui mừng
 Phóng quang chiếu Phật độ
 Và chói các núi cao
 Thế Tôn hiện thần thông
 Tế độ người ưa pháp
 Chư Thiên ,Long và Nhơn
 Cưu Bàn Trà, Ngạ quỷ
 Những chúng Bố Đát Na
 Thấy nhau không chứng cách
 Trăm ngàn na do tha
 Câu chi các Thiên Tử
 Thấy Phật phóng quang minh
 Rất là khó gặp gỡ
 Vua Tần Bà Ta La
 Cùng các quan vây quanh
 Đến chỗ đức Thế Tôn
 Như Lai đời nương dựa
 Phật biết Trời,Rồng,Người
 Đại chúng đều ngồi xong
 Vì Lợi ích chúng sanh
 Nhìn ngó khắp bốn phương
 Tuyên cáo ngườI có nghi
 Nên hỏI nơi Thế Tôn
 Phật dìu dắt chúng sanh
 Khéo dứt trừ lướI nghi”.
 Lúc ấy bao nhiêu chúng sanh tron cõi ĐạI Thiên đều đến hộI họp để nghe pháp.Vì nghe pháp nên họ đều dứt lặng ngoạI duyên tâm an trụ một cảnh.
 Đức Phật bảo Ngài ĐạI Mục Kiền Liên rằng : “Ông coi hôm nay có Tỳ Kheo nào ở xa chưa về dự hộI thì nên mờI về”.
 Bấy giờ Ngài ĐạI Ca Diếp đương ở phía Nam núi Tuyết.Ngài ĐạI Mục Kiền Liên đã biết nên dùng thần thông đến thưa rằng :”Hôm nay đức Như Lai ở tạI núi Linh Thứu vì đạI chúng chư Thiên,Ma Vương,Phạm Vương, Sa Môn , Bà La Môn, A Tu La mà nói diệu pháp. Đức Thế Tôn đương chờ Ngài đấy.Ngài nên mau về,chớ để chúng tôi phảI chướng ngạI sự nghe pháp”.
 Ngài ĐạI Ca Diếp bảo Ngài ĐạI Mục Kiền Liên rằng : “ Ngài về trước ,tôi sẽ đến sau”.
 Nói xong, Ngài ĐạI Ca Diếp chẳng đứng dậy,hiện thần thông lực vào thành Vương Xá dẫn đạo bốn bộ chúng cùng theo Ngài đến núi Linh Thứu đảnh lể chưn đức Phật rồI ngồI gần bên đức Phật.
 Ngài ĐạI Mục Kiền Liên dùng thần thông lực về đến chỗ đức Phật đã thấy Ngài ĐạI Ca Diếp đã ngồI ở đó rồI liền thưa rằng : “ Thưa Ngài ĐạI Ca Diếp! Tôn giả đã thành tựu đạI thần thông lực rất mau chóng,có thể chẳng cần đứng dậy rờI chỗ ngồI mà hiện thần thông biến hóa như vậy”.
 Ngài ĐạI Ca Diếp nói : “Đức Thế Tôn khen Ngài là thần thông đệ nhứt,nay tôi hiện chút pháp mọn có gì đáng kể”.

 Pháp HộI Bồ Tát Tạng
 Phẩm Kim Tỳ La Vương Thọ Ký
 Thứ Hai
 Hết
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19674)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23931)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41177)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19659)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23944)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21732)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23282)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27477)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26524)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29285)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33149)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20169)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25725)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20884)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31260)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38508)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21401)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44212)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29788)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42133)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22112)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45689)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32069)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23935)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24351)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29222)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33878)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27652)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32098)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21032)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28826)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21534)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28002)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22046)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21410)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19476)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19443)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19807)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19211)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29128)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20594)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28258)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23620)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33142)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31814)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21354)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39587)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21528)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19355)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26332)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24790)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21729)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22352)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29107)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22537)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20452)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23476)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21221)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35260)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24533)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant