Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

30-pháp Hội Diệu Huệ Đồng Nữ

01 Tháng Năm 201000:00(Xem: 8268)
30-pháp Hội Diệu Huệ Đồng Nữ

KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XXX
Pháp hội

DIỆU HUỆ ĐỒNG NỮ

Thứ ba mươi 

Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt Dịch: Việt Nam Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

 Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở tại thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật cùng chúng đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người và đại Bồ Tát mười ngàn người câu hội. 

Bây giờ thành Vương Xátrưởng giả nữ tên Diệu Huệ mới tám tuổi dung mạo đoan chánh xinh đẹp đầy đủ tướng người ai thấy đều vui thích, đã từng thân cận cúng dường trồng các căn lành nơi vô lượng chư Phật quá khứĐồng nữ Diệu Huệ đến lễ chưn đức Như Lai nhiễu ba vòng qùy chắp tay bạch rằng: 

«Đấng Vô thượng Chánh giác 
Làm đèn sáng thế gian 
Xin cho phép tôi hỏi 
Sở hành của Bồ Tát ».

Đức Phật phán : «Nay cho ngươi tùy ý hỏi, Phật sẽ giải thuyết để dứt lưới nghi».

Diệu Huệ liền nói kệ thỉnh hỏi: 
«Làm sao được thân đẹp 
Đại phú và tôn qúi 
Lại do nhơn duyên gì 
Quyến thuộc khó trở hoại 
Thế nào thấy thân mình 
Được thọ biến hóa sanh 
Ngồi hoa sen ngàn cánh 
Diện phụng Phật Thế Tôn 
Thế nào chứng nhập được 
Tự tại thắng thần thông 
Đến khắp vô lượng cõi 
Kính lễ lạy chư Phật 
Thế nào được không oán 
Lời nói được người tin 
Trừ sạch các pháp chướng 
Lìa hẳn các ma nghiệp 
Thế nào lúc mạng chung 
Được thấy chư Phật hiện 
Nghe nói pháp thanh tịnh 
chẳng bị khổ não bức 
Đấng đại bi vô thượng 
Xin thương giải thuyết cho »

Đức Phật bảo Diệu Huệ : «Lành thay lành thay! Khéo hỏi được nghĩa thâm diệu ấy. Lắng nghe kỹ và khéo suy gẫm đức Phật sẽ nói cho ».

Diệu Huệ bạch rằng : «Vâng bạch thế Tôn! Xin muốn được nghe ».

Đức Phật dạy : «Nầy Diệu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được thọ thân hình đoan chánh : một là nơi ác hữu chẳng khởi lòng giận hờn, hai là an trụ đại từ, ba là rất thích chánh pháp, bốn là tạo hình tượng Phật ».

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng: 

« Sân hoại thiện căn chớ tăng trưởng 
Từ tâm thích pháp tạo hình Phật 
Sẽ được thân đủ tướng trang nghiêm 
Tất cả chúng sanh thường ưa thấy.

Lại nầy Diệu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được thân phú quí : một là bố thí đúng thời, hai là không lòng khinh mạn, ba là vui mừng mà cho, bốn là chẳng mong quả báo ».

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng: 

«Đúng thời bố thí không khinh mạng 
Hoan hỉ đem cho chẳng mong cầu 
Nơi bốn hạnh nầy thường siêng tu 
Thọ sanh sẽ được đại phú quí ».

Lại nầy Diệu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được quyến thuộc chẳng trở hoại : một là khéo rời bỏ được lời ly gián, hai là làm cho chúng sanh tà kiến an trụ chánh kiến, ba là chánh pháp sắp diệt hộ trì cho còn lâu, bốn là dạy chúng sanh xu hướng Phật Bồ Đề ».

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng : 

«Bỏ rời ly giántà kiến 
Chánh pháp sắp diệt hay hộ trì 
Khiến chúng sanh trụ đại Bồ Đề
Sẽ được quyến thuộc không hư hoại ».

 Lại nầy Diệu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp sẽ được ở trước chư Phật hóa sanh ngồi tòa liên hoa : một là cầm hoa quả đẹp ngon và hương thơm dâng cúng chư Phật và các chùa tháp, hai là trọn chẳng vọng làm tổn hại kẻ khác, ba là tạo tượng Phật ở trên đài sen, bốn là với Phật Bồ đề hay sanh lòng tin thanh tịnh ».

 Đức Thế Tôn nói Kệ rằng: 

«Hoa hương cúng Phật và chùa tháp
Chẳng hại kẻ khác và tạo tượng 
Rất tin hiểu nơi Phật Bồ Đề 
Được ngồi hoa sen sanh trước Phật.

 Lại nầy Diệu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được thần thông thù thắng từ một Phật độ đến một Phật Độ: một là thấy người tu pháp lành thì chẳng làm chướng não, hai là lúc người thuyết pháp trọn chẳng làm trở ngại ba là thắp đèn sáng cúng dường tháp Phật, bốn là siêng tu tập các môn thiền định »

 Đức Thế Tôn kệ rằng: 

«Thấy người tu lành thuyết chánh pháp 
Chẳng hủy báng cũng chẳng trở ngại 
Tháp thờ Như Lai cúng đèn sáng 
Siêng tu thiền định dạo nước Phật. 

 Lại nầy Diệu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì ở đời không oán thù : một là dùng lòng không dua vạy mà gần gũi thiện hữu, hai là là nơi pháp thù thắng của người không lòng tật đố, ba là người được danh dự lòng vui mừng theo, bốn là nơi hạnh Bồ Tát không lòng khinh hủy».

Đức Thế Tôn nói kệ rằng: 

«Chẳng lòng dua vạy gần hạnh lành 
Người có hơn ta không ganh ghét 
Người được danh dự thường hoan hỉ 
Chẳng chê Bồ Tát được không oán.

Lại nầy Diệu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì lời nói được người tin : một là phát ngôn tu hành thường khiến tương ưng, hai là ở chỗ thiện hữu chẳng dấu lỗi quấy, ba là nơi pháp được nghe chẳng tìm lỗi dở, bốn là với người thuyết pháp chẳng sanh ác tâm ».

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng: 

«Phát ngôn tu hành thường tương ưng 
Chẳng giấu tội mình với thiện hữu 
Nghe kinh chẳng tìm lỗi nhơn pháp
Lời nói tất cả được người tin. 

 Lại nầy Diệu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì có thể rời lìa pháp chướng mau được thanh tịnh: một là thâm tâm ưu thích nhiếp trì ba luật nghi, hai là nghe kinh thậm thâm chẳng sanh lòng nghi báng, ba là thấy Bồ Tát tân phát ý thì sanh tâm Nhứt thiết trí bốn là đồi với tất cả hữu tình có tâm đại từ bình đẳng ».

Đức Thế Tôn nói kệ rằng: 

 «Dùng thâm ý nguyện nhiếp luật nghi 
Nghe kinh thậm thâm hay tin hiểu 
Kính sợ phát tâm tưởng là Phật 
Tâm từ khắp độ tiêu chướng nạn.

Lại nầy Diệu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hay rời lìa các ma nghiệp: một là biết rõ pháp tánh bình đẳng, hai là phát khởi tinh tiến, ba là thường siêng niệm Phật, bốn là tất cả thiên căn đều hồi hướng Vô thượng Bồ Đề

Đức Thế Tôn nói kệ rằng: 

«Biết được các tánh bình đẳng 
Thường khởi tinh tiến Như Lai 
Hồi hướng tất cả các thiện căn 
Chúng ma không thể được dịp hại. 

 Lại nầy Diễu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì lúc lâm chung được chư Phật hiện tiền : một là người có cầu muốn gì thì bố thí cho đầy đủ, hai là nơi các pháp lành sanh tin hiểu sâu, ba là với chư Bồ Tát thí cúng đồ trang nghiêm, bốn là ở nơi Tam bửu siêng lo cúng dường ».

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng: 

«Người có cầu dùng thí cho đủ 
Tin hiểu pháp sâu cúng trang nghiêm
Tam bửu phước điền siêng cúng dường 
Lâm mạng chung thời thấy Phật hiện ».

Diệu Huệ đồng nữ bạch rằng : Bạch đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật dạy về hạnh Bồ Tát tôi sẽ phụng hành. Trong bốn mươi hạnh ấy nếu tôi thiếu một hạnh mà chẳng tu thì trái với lời đức Phật dạy là khi dối đức Như lai ».

 Tôn giả Mục Kiền Liên bảo đồng nữ Diệu Huệ rằng : «Hạnh Bồ Tát rất khó làm được, nay cô phát nguyện lớn thù thắng ấy, có phải là cô đã được tự tại nơi nguyện ấy chăng?».

Diệu Huệ bạch Tôn Giả rằng : «Nếu hoằng nguyện của tôi chơn thiệt chẳng hư có thể làm cho các hạnh Bồ Tát được viên mãn thì xin cõi Đại Thiên Tam Thiên nầy chấn động sáu cách trời mưa hoa đẹp trống trời tự kêu ».

Đồng nữ nguyện xong, hư không tuôn hoa như mưa, trống trời kêu vang, cả Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách. 

Diệu Huệ bạch Tôn Giả rằng : «Do lời phát nguyện chơn thiệt ấy đời vị lai tôi sẽ thành Phật như đức Thích Ca Như Lai. Cõi nước tôi không có các ma sự và tên ác thú nữ nhơn. Nếu lời tôi nói đây không hư vọng thì nguyện cho thân thể đại chúng đều kim sắc ».

Đồng nữ nói xong cả chúng đều thành kim sắc

Tôn giả Mục Kiền Liên rời chỗ ngồi đứng dậy trịch y vai hữu đảnh lễ chưn Phật mà bạch rằng : «Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi trước lạy Bồ Tát sơ phát tâm và chúng đại Bồ Tát ».

Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử hỏi Diệu Huệ : «Cô an trụ pháp gì mà phát nguyện thành thiệt ấy?».

Đồng nữ Diệu Huệ đáp rằng : «Bạch Văn Thù Sư Lợi ! Lời hỏi ấy chẳng phải. Tại sao? Vì trong pháp giới không có sở trụ vậy ».

 Lại hỏi: «Thế nào gọi là Bồ Đề? ».

 Đáp: «Vô phân biệt pháp, đây gọi là Bồ Đề ».

 Lại hỏi : «Thế nào gọi là Bồ Tát? ».
Đáp : «Tất cả các pháp đồng tướng hư không, đây gọi là Bồ Tát ».
Lại hỏi : «Thế nào gọi là Bồ Đề? ».
Đáp : «Hạnh dường như dương diệm cốc hưởng, đây là hạnh Bồ đề ».
Lại hỏi : «Y cứ mật ý gì mà nói như vậy? ».
Đáp : « Ở trong đây tôi không thấy có chút pháp mật chẳng phải mật ».
Lại hỏi : «Nếu như vậy thì tất cả phàm phu lẽ ra là Bồ Đề? ».
Đáp : «Ngài cho rằng Bồ Đề khác với phàm phu ư! Chớ quan niệm như vậy. Tại sao? Vì đồng một tướng pháp giới chẳng thủ chẳng xả không có thành hoại vậy ».
Lại hỏi : «Trong nghĩa nầy người hiểu rõ được số ấy có bao nhiêu? ».
Đáp : «Như bao nhiêu lượng tâm tâm sở huyễn hóa thì có bao nhiêu chúng sanh huyễn hoá hay hiểu rõ nghĩa nầy »
Lại hỏi :«Huyễn hóa vốn không có sao lại có tâm tâm sở như vậy?».
Đáp : «Pháp giới cũng vậy chẳng có chẳng không, nhẫn đến Như Lai cũng chẳng có chẳng không như vậy ».
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật rằng : «Bạch đức Thế Tôn ! Đồng nữ Diệu Huệ nầy thật rất hi hữu hay thành tựu được pháp nhẫn như vậy ».
Đức Phật phán : « Đúng như vậy, thiệt như lời Văn Thù Sư lợi nói.Nhưng thuở qua khứ đồng nữ nầy đã phát tâm Bồ đề trải qua ba mươi kiếp rồi ta mới phát xu vô thượng Bồ ĐềĐồng nữ nầy cũng làm cho Văn Thù Sư Lợi an trụ vô sanh nhẫn ».
Văn thù Sư Lợi Bồ Tát liền day lại đảnh lễ đồng nữ Diệu Huệ và bạch rằng : «Thuở quá khứ vô lượng kiếp trước tôi đã từng cúng dường cô, chẳng ngờ ngày nay lại được thân cận».
Diệu Huệ nói : «Bạch Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Ngài chớ sanh khởi phân biệt như vậy. Tại sao, vì do vô phân biệt mà được vô sanh nhẫn vậy».
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát lại hỏi Diệu Huệ đồng nữ : «Nay cô vẫn chưa chuyển đổi thân nữ nhơn ư?».

Diệu Huệ nói : « Tướng nữ nhơn trọn bất khả đắc thì nay chuyển đổi những gì. Bạch Văn Thù Sư Lợi ! Tôi sẽ vì Ngài mà dứt trừ nghi hoặc. Do vì tôi nói lời chơn thiệt như vầy : Đời đương lai lúc tôi được vô thượng Bồ đề, trong chánh pháp của tôi các hàng Tỳ Kheo nghe lời truyền thiện lai xuất gia nhập đạo. Trong quốc độ tôi tất cả chúng sanh thân đều kim sắc ăn mặc đồ dùng như cung trời thứ sáu đều tùy niệm hiện ra, không có ma sự và các ác đạo cũng không có tên nữ nhơn, có tòa bảy báu trên giăng lưới báu, hoa sen bảy báu trùm với tướng báu, như cõi thanh tịnh trang nghiêm của Văn Thù Sư Lợi được thành đồng nhau không khác. Nếu lời tôi nói trên đây không hư vọng thì nay toàn đại chúng thân đều kim sắc, thân nữ nhơn của tôi biến thành nam tử như Tỳ Kheo trí pháp ba mươi tuổi».

Đồng nữ nói xong, toàn đại chúng thân đều kim sắc. Diệu Huệ chuyển thành nam tử như Tỳ Kheo tri pháp ba mười tuổi. 

Bấy giờ chư Thiên Địa cư chuyền nhau ca ngợi : « Thiện tai! Đại tai ! Diệu Huệ đại Bồ Tát có thể thuở vị lai lúc thành Bồ Đề cõi nước nghiêm tịnh công đức như vậy ».

 Đúc Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : «Diệu Huệ Bồ Tát nầy đời Đương Lai thành Phật hiệu là Thù Thắng công Đức Bửu Tạng Như Lai ».

 Đức Phật nói lời nầy có ba mươi câu chi chúng sanh an trụ bất thối chuyển nơi Vô thượng Bồ Đề, tám mươi câu chi chúng sanh xa trần lìa cấu được pháp nhãn tịnh, tám ngàn chúng sanh được trí chúng. Năm ngàn Tỳ kheo hành Bồ Tát thừa lòng muốn thối chuyển nay nhơn vì thấy Diệu Huệ Bồ Tát ý nguyện thiện căn oai đức thù thắng nên đều cởi thượng y đang mặc dâng lên đức Như Lai rồi phát hoằng thệ rằng: « Do thiện căn nầy chúng tôi quyết định thành Vô thượng Bồ đề ».

 Vì chư Tỳ Kheo nầy đem thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề nên siêu chín mươi kiếp khổ sanh tử được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề

 Đức Phật liền thọ ký cho năm ngàn Tỳ kheo ấy rằng : « Đời đương lai qua sau ngàn kiếp, trong kiếp Vô Cấu Quang Minh, thế giới Dương Diệm, quốc độ Nam Nhẫn, trong một kiếp nối kế nhau thành Phật đồng một hiệu là Biện Tài Trang Nghiêm Như Lai ».

Đức Phật phán tiếp: «Nầy Văn Thù Sư Lơi! Pháp môn như vậy có đại oai đức hay khiến chư Bồ Tát và người Thanh Văn thừa được lợi ích lớn. 

 Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Hoặc có thiện nam tử thiện nữ nhơn vì cầu Bồ đề mà không phương tiện thiện xảo hành sáu Ba La mật mãn ngàn kiếp. Lại có người trong nữa tháng biên chép đọc tụng kinh nầy, thì phước đức đây hơn phước đức trên ngàn muôn ức lần, nhẫn đến không toán số thí dụ

 Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Pháp Môn vi diệu như vậy là căn bổn của các khế kinh Đại thừa, ta đem phó chúc cho ông, đời đương lai ông thọ trì đọc tụng giải thuyết cho người. 

 Ví như vua Chuyển Luân Thánh Vương xuất thế thì bảy báu đều hiện ra tại trước vua ; Sau khi vua mất thì bảy báu cũng mất theo.

 Pháp môn vi diệu nầy lưu hành tại thế gian thì chính là pháp nhãn thất Bồ đề phần v.v…của chư Như Lai chẳng mất. Nếu không lưu hành thì chánh pháp sẽ mất. 

 Vì thế nên, nầy Văn THù Sư Lợi ! Nếu người muốn cầu Bồ đề thì nên phát khởi tinh tiến biên chép kinh nầy thọ trì đọc tụng vì người mà giải thuyết. Đây là lời dạy của Phật, chớ để đời sau phải sanh lòng hối hận ».

 Đức Phật nói kinh nầy rồi, Diệu Huệ Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và cả đại chúng Thiên Long Bát Bộ nghe lời Phật dạy đếu rất vui mừng tín thọ phụng hành

PHÁP HỘI DIỆU HUỆ ĐỒNG NỮ 
THỨ BA MƯƠI 
HẾT 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19738)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23991)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41251)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19722)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24032)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21756)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23331)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27522)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26587)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29355)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33234)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20216)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25803)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20946)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31357)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38624)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21465)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44301)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29863)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42257)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22165)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45808)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32145)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23989)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24425)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29315)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33945)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27711)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32185)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21103)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28879)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28119)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22091)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21459)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19541)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19492)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19850)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19284)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29232)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20645)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28328)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23678)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33232)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31878)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21417)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39671)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21588)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19406)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26434)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24857)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21775)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22414)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29169)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20490)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23560)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21264)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35379)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24579)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant