Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16.03. Phẩm A Tu La Vương Thọ Ký

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8811)
16.03. Phẩm A Tu La Vương Thọ Ký
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999


XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm A Tu la Vương Thọ Ký
Thứ Ba


 Bấy giờ đức Thế Tôn hiện thoại tướng. Do thoại tướng ấy nên A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa nghĩ rằng : Nay tôi cúng dường Phật trước nhứt.

 A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa cùng đồ chúng sáu mươi na do tha, quyến thuộc, phụ nữ cũng sáu mươi na do tha, đồng đem bửu châu vô giá và các vật quí trong biển dâng cúng đức Phật.

 A Tu La Vương ấy hóa làm sáu mươi na do tha xe thất bửu. Các bửu xa ấy lại hóa làm sáu mươi na do tha ngựa điều thuận, trên ngựa lại hóa lưới linh thất bửu để trang sức, chưn ngựa đeo linh xuyến bằng chơn kim, bờm và đuôi ngựa đều bao kết bằng thất bửu, dây cương bằng chơn kim, trên xe báu đều trang nghiêm với thất bửu, càng lọng đều bằng thất bửu. Các lọng thất bửu ấy ở trên hư không bay theo xe, dây linh treo trong lọng cũng bằng thất bửu, có lưới thất bửu giăng trùm lên trên lọng. Gió nhẹ thổi động xe ngựa và lọng thất bửu ấy phát ra tiếng vang vi diệu như trăm thứ nhạc do nhạc công giỏi đồng hòa tấu khiến ngưòi nghe vui vẻ, đoạt thị thính người, đoạt tâm ý người.

 Các xe ngựa thất bửu ấy ở trên không cách mặt đất sáu mươi do tuần, sau xe tấu âm nhạc, trên xe đều có A Tu La nữ trang sức rất đẹp. Các A Tu La nữ ấy, hoặc đứng vũ, hoặc ngồi vũ, hoặc xướng ca, hoặc thân động chuyển, hoặc rắc hương bột, hoặc rưới nước thơm, hoặc mưa các thứ hương mưa các thứ hoa mưa mạt vàng, hoặc rải hoa vàng hoa bạc hoa lưu ly hoa pha lê hoa xích chơn châu hoa mã não hoa xa cừ, hoặc cầm thất bửu rải, hoặc rải trang sức, tất cả đều để cúng dường đức Thế Tôn. Hoặc có A Tu La nữ rung động linh xuyến cho reo thành tiếng, hoặc đội vòng hoa thất bửu trang nghiêm với chơn kim, hoặc đội vòng hoa chơn kim trang nghiêm với thất bửu, hoặc cầm lưới chơn kim, hoặc cầm phan thất bửu,hoặc cầm lọng thất bửu, hoặc cầm tràng thất bửu, đều để cúng dường đức Thế Tôn.

 Lại có các A Tu la nữ chắp tay nói kệ tán thán rằng :

 Quy mạng Trượng Phu Điều Ngự Sư
 Quy mạng đấng Trượng Phu Tối Thắng
 Quy mạng Trượng Phu Lưỡng Túc Tôn
 Quy mạng Trượng Phu không ai sánh
 Quy mạng đấng soi sáng thế gian
 Quy mạng biển trí lớn tối thượng
 Quy mạng rừng đầy đủ công đức
 Quy mạng núi tối thắng vi diệu
 Quy mạng khối đầy đủ công đức
 Quy mạng người dứt sạch phiền não
 Quy mạng thầy tu các tịnh hạnh
 Quy mạng tịnh hạnh không đoạn tuyệt
 Quy mạng vô y không khiếp nhược
 Quy mạng không lười không tán điệu
 Quy mạng quyết định phát tinh tấn
 Quy mạng đấng quyết định đầy đủ.

 A Tu La Vương lại hóa làm sáu mươi na do tha màn trướng thất bửu vi diệu rất lạ nhiều màu trang nghiêm. Dưới mỗi màn trướng báu bay lững lờ ấy lại hóa sáu mươi na do tha đại địa thất bửu. Trên đại địa ấy đều hóa sáu mươi na do tha tường thành thất bửu. Trong mỗi tường thành hóa sáu mươi na do tha lâu đài cung điện thất bửu. Mỗi điện đường có sáu mươi na do tha cửa lớn cửa sổ thất bửu xen lẫn trang nghiêm. Trong mỗi điện đường có sáu mươi na do tha tòa sư tử thất bửu trải bửu y. Hai đầu sư tử tọa để gối đỏ, trước tọa có chiếc kỷ thất bửu trên để sáu ức bửu y của A Tu La Vương. Trên mỗi tòa sư tử đều có hai A Tu La nữ trang sức thất bửu đều cầm lá cây đa la thất bửu làm quạt hầu hai bên một hóa A Tu La tử ngồi trên ấy. Các điện đường ấy đều có sáu mươi na do tha tràng lọng thất bửu.
 Các màn trướng và điện đường thất bửu ấy ở trên không bay nhiễu bên hữu đức Phật ba vòng, rải các thứ hương, mưa các thứ hoa cúng dường đức Phật.
 Lúc ấy ngoài bốn cửa thành Ca Tỳ La đều rộng sáu mươi do tuần, do sức oai thần của A Tu La Vương phóng ánh sáng chiếu khắp sáu mươi do tuần, chiếu lên sáu vạn do tuần chu vi đầy khắp những đồ cúng dường. Các màn trướng lững lờ bay nhiễu quanh Phật rồi dừng lại.

 Lúc ấy trong thành Ca Tỳ La chứa hoa trời mạn đà la cao bảy trượng, nước thiên hương thành bùn. Do thần lực của Phật làm cho hơi thơm ấy khắp tam thiên Đại Thiên Đại thừa nghe hơi thơm ấy, người mới phát Bồ đề tâm cũng còn được bất thối chuyển huống là người đã tu lâu.

 A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa ngồi xe thất bửu nhiễu quanh Phật ba vòng dùng bột hương chiên đàn cõi trời rải lên trên đức Phật mà nói kệ rằng:

 "Nay tôi quy y Bà Già Bà
 Đấng ban Trời Người đức vô úy
 Quy y đấng tối thắng bất động
 Hi vọng vô thượng đại Bồ đề
 Nay tôi quy y Bà Già Bà
 Lòng mừng chẳng đọa ba ác đạo
 Thế nên nay tôi quy y Phật
 Mong cầu vô thượng đại Bồ đề
 Nay tôi quy y Bà Già Bà
 Đấng trừ sanh tử biển khổ lớn
 
 Hay dứt đồng hoang lìa phiền não
 Bực thầy hay dẫn đạo chúng sanh
 Nay tôi quy y Bà Già Bà
 Quy y Phật rồi chẳng cầu sanh
 Biển rất khổ bị già chết bức
 Thế Tôn là thầy của Trời Người".
 Nói kệ tán thán Phật rồi A Tu La Vương nhiễu Phật ba vòng.
 Các ngựa báu anh lạc trang nghiêm, các xe báu, các A Tu La, các A Tu La nữ, các tràng phan lọng báu linh lưới thất bửu bị gió thổi động vang ra tiếng vi diệu vui lòng đẹp dạ như cả trăm thứ nhạc hòa tấu rất hay.
 A Tu La Vương lại nhiễu Phật ba vòng, mưa hương bột chiên đàn cõi trời, hương bột ưu bát la, hương bột trầm thủy, hương bột đa ma la, các thứ hương bột a tu la từ trên không rơi xuống. Lại mưa các hoa trời mạn đà la, ma ha mạn đà la, mạn thù sa, ma ha mạn thù sa, ba lô sa ca, ma ha ba lô sa ca, ca ca la bà, ma ha ca sa la bà, ba tra lê, ma ha ba tra lê, chất đa la ba ra trê, ma ha chất đa la ba tra lê. Lại có các thứ hoa biến hóa, hoa vàng, hoa bạc, hoa lưu ly, hoa pha lê, hoa xích chơn châu, hoa xa cừ, hoa mã não từ trên không mưa xuống.
 Lại mưa nước thơm cõi trời, nước thơm A Tu La. Do vì nước thơm ấy nên thành Ca Tỳ La trong ngoài sáu mươi do tuần đều thành bùn thơm, hơi thơm ấy khắp tam thiên Đại Thiên thế giới. Bồ Tát được nghe hơi thơm ấy được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
 A Tu La Vương nhiễu Phật ba vòng, do thần lực đức Phật ở trong hư không trỗi âm nhạc trời và âm nhạc A Tu La. Các âm nhạc ấy do thần lực Phật nên vang khắp tam thiên Đại Thiên thế giới. Người tu Đại thừa nghe tiếng âm nhạc ấy được bất thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
 Vô lượng trăm ngàn A Tu La nữ, hoặc ca, hoặc vũ, hoặc tấu nhạc, hoặc thân chuyển động.
 Các A Tu La nữ lại rải các thứ hương bột, cõi trời và các thứ hoa trời, hoa biến hóa, hoa thất bửu để cúng dường đức Phật. Lại rải những y phục báu và những đồ trang sức thất bửu, các thứ hương bột, các thứ chơn châu để cúng dường Phật.
 
 A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa cùng các quyến thuộc đồng thanh nói kệ rằng:
 "Tâm tôi thường như vậy
 Gặp gỡ Phật Thế Tôn
 Vì qui y Như Lai
 Vị lai thường cúng dường".
 A Tu La Vương Ba La Đà bố thí cúng dường Phật cũng như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng rồi nói kệ rằng:
 "Tôi lạy đấng được thiệt thập lực
 Cũng lạy đấng vô úy tự tại
 Quyết định được những pháp bất cộng
 Quy mạng Đạo Sư các thế gian
 Tôi lạy đấng dứt trừ kiết sử
 Cũng lạy xuất ly đường sanh tử
 Đạo Sư dẫn dắt chúng sanh nghèo
 Tôi lạy trí sâu chẳng nghĩ bàn
 Cùng chúng hòa hiệp chẳng lay động
 Ở trong các loài tâm giải thoát
 Như hoa sen kia chẳng dính nước
 Thế Tôn vốn tu các pháp không
 
 Rời lìa lựa chọn được vô tướng
 Nơi tất cả chỗ không nguyện cầu
 Tôi lạy như không không chỗ nương".
 A Tu La Vương Thiện Tý trần thiết cúng dường quảng đại vô lượng như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng rải những lúa vàng chơn kim và nói kệ tán thán:
 "Đấng Đại Mâu Ni không ai sánh
 Trên trời dưới trời cũng vô tỉ
 Phật biết chúng sanh như dương diệm
 Chẳng phải thiệt chỉ là ý tưởng
 Nơi đây không người làm người thọ
 Cũng không sĩ phu không vô ngã
 Rời lìa tạo tác không thể tánh
 Tuyên nói tất cả pháp tịch địch
 Tin hiểu được nơi pháp Như Lai
 Quán tất cả pháp đều bình đẳng
 Người ấy sẽ được làm Phật tử
 Thuận lời Phật dạy như cha mẹ
 Nay tôi khen ngợi phước đã được
 Tôi đem phước đức của tôi có
 Hồi thí chúng sanh đều làm Phật".
 
 A Tu La Vương Bạt Trì Tỳ Lô Giá Na trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng dùng hoa chất da la ba tra lê rải cúng dường Phật rồi nói kệ tán thán rằng:
 "Đại Tiên Như Lai thân thần diệu
 Vượt hơn tất cả các Trời Người
 Đã như Tu Di so hột cải
 Lại giống biển lớn sánh dấu trâu
 Nhan dung Như Lai rất đoan chánh
 Nhiều tướng trang nghiêm tối đệ nhứt
 Vượt hơn tất cả các màu sắc
 Như mặt nhựt mọc lửa đóm lu
 Thế Tôn khối vô lượng oai đức
 Khiến các oai đức chẳng hiện được
 Như mặt nhựt mọc sáng đóm mờ
 Đại Thánh Thế Tôn biển trí lớn
 Vượt hơn trùm khắp cả ba cõi
 Che các ngoại đạo khiến chẳng hiện
 Như mặt trời sáng khuất ánh trăng".
 

 A Tu La Vương Diệm Bà Lợi trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng, dùng hoa ma ha ba tra lê rải cúng Phật rồi nói kệ tán thán rằng:
 "Bực trí huệ thích xa ma tha
 Trừ được ba độc tham sân si
 Dẫn dắt chúng sanh xuất thế gian
 Như mưa rào tắt lửa lắng bụi
 Thế Tôn hừng hực mắt chánh pháp
 Cũng như dầu tô tưới lửa hừng
 Hay dứt phiền não lưới nghi hết
 Cũng như lửa đốt đồng hoang lớn
 Nhan dung đoan chánh rất vi diệu
 Các tướng trang nghiêm tối đệ nhất
 Vượt hơn tất cả các diệu sắc
 Như mặt nhựt mọc sáng đóm mờ
 Như Lai nắm cầm các thiện căn
 Vô lượng ức vạn na do tha
 Hay trừ phiền nãonghiệp ác
 Như ăn cam lộ trừ thân độc
 Thổi trừ tất cả tối vô minh
 Như đêm đuốc sáng soi hắc ám
 
 Như Lai thị hiện mắt chánh pháp
 Dường như thợ ngọc rõ giá ngọc".
 A Tu La Vương Lạc Chiến trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng rải những hoa báu nói kệ tán thán rằng:
 "Ác tâm khó điều Phật điều được
 Như dũng sĩ mạnh hàng giặc dữ
 Khéo được nhu nhuyến tâm tự tại
 Tôi lạy đấng vô úy tâm điều
 Ủiều được các căn lìa oán thù
 Rời úy vô úy được an ổn
 Thế Tôn phiền não chẳng còn phát
 Trừ dứt độc hại đều không thừa
 Sức na la diên khéo tu từ
 Ở trong yêu ghét lòng bình đẳng
 Như Lai biết ý tưởng chúng sanh
 Chẳng bị sáu đường nắm giữ được
 Rời lìa tâm tưởng hết tham ái
 Phóng sáng trí huệ phá tối tăm
 Ở trong các pháp lòng chẳng chấp
 Thế Tôn siêu quá không ai sánh".
 
 A Tu La Vương Thiện Nhựt trần thiết cúng dường như Tỳ Ma Chất Đa A Tu La Vương, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng dâng các bửu tạng lên Phật nói kệ tán thán rằng:

 "Đại Hùng biết từ lâu
 Thiệt tướng của các pháp
 Đó là tên các pháp
 Đều riêng hòa hiệp giả
 Thể của tất cả pháp
 Các cách cầu chẳng được
 Nói rằng là pháp nầy
 Nói đều là giả danh
 Lìa danh gọi thể tánh
 Các tướng cũng như vậy
 Không tướng cũng không danh
 Đã lìa ba thứ pháp
 Nói rằng là giải thoát
 Thiệt thì không chỉ được
 Người nói nói cũng không
 Người hiểu cũng là không
 Biết các pháp như vậy
 Đấng Mâu Ni vô thượng
 Chẳng chấp nơi các pháp
 Tu hành danh xưng lớn".
 
 A Tu La Vương Phục Tam Giới trần thiết cúng dường như Tỳ Ma Chất Đa A Tu La Vương, ngồi xe thất bửu nhiễu quanh Phật ba vòng dâng chơn châu anh lạc lên Phật nói kệ tán thán rằng:

 "Nay tôi khen Phật lìa oán địch
 Dung nhan đoan chánh sức giới trí
 Tất cả thế gian không như Phật
 Dùng thân vô tỉ phục thù địch
 Sắc lực quang minh chiếu ba cõi
 Tu các nghiệp lành được tướng tốt
 Tám mươi tùy hảo đều nghiêm tịnh
 Sức trì tịnh giới không bị động
 Người trí suy lường chẳng biết được
 Vì Phật trì giới tâm thanh tịnh
 Nên được thành đấng Phật Thế Tôn
 Trí lực của Phật không còn sánh
 Vì không bố úy hơn ba cõi
 Như vua sư tử rống giữa rừng
 Vượt hơn tất cả các ngoại đạo".
 

 A Tu La Vương Tỳ Lô Giá Na trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng tay cầm các báu rải trên Phật mà tán thán rằng:
 "Đại chúng đều họp chỗ Mâu Ni
 Tịnh tâm chiêm ngưỡng mặt Như Lai
 Tất cả hiện tiền thấy Thế Tôn
 Đây là tướng bất cộng của Phật
 Phật dùng một âm diễn thuyết pháp
 Mọi loài tùy tâm đều được hiểu
 Phật thuyết pháp đúng cơ chúng sanh
 Đây là tướng bất cộng của Phật
 Phật dùng một âm diễn thuyết pháp
 Chúng sanh tùy loài đều được hiểu
 Xứng ý mong muốn biết rõ nghĩa
 Đây là tướng bất cộng của Phật
 Phật dùng một âm diễn thuyết pháp
 Hoặc có tu tấn hoặc điều phục
 Hoặc có chứng được quả vô học
 Đây là tướng bất cộng của Phật".
 A Tu La Vương Mục Chơn Lân Đà trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng tay cầm xích chơn châu rải lên Phật nói kệ tán thán rằng:
 "Tâm tịnh vui mừng kính tin Phật
 Rời lìa ngạo mạn không tà kiến
 Thuận Phật A Hàm chẳng phóng dật
 Đây là bực tu hành vô tỷ
 Các pháp tự tánh bất khả khả đắc
 Như mộng hành dục thảy đều hư
 Chỉ theo ý tưởng chẳng thiệt có
 Thế Tôn biết pháp cũng như vậy
 Như mây mùa thu trăng trong nước
 Mê hoặc chúng sanh ngu vô trí
 Chẳng mê hoặc được người mắt sáng
 Tinh tấn rất ưa Phật chánh pháp
 Người diệu rất diệu chẳng sai lầm
 Ở trong Phật pháp chẳng phóng dật
 Phân biệt các pháp đều như mộng
 Được thấy như thiệt diệu tam muội".
 Bấy giờ các A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa v.v... có sáu mươi na do tha A Tu La trần thiết cúng dường rồi, thảy đều chắp tay làm lễ đứng yên, mừng vui hớn hở tình ý tràn đầy vui mừng vừa lòng, tâm nguyện Bồ Đề nối tiếp chẳng tuyệt.
 Đức Thế Tôn biết các A Tu La tín tâm cúng dường rồi, theo pháp chư Phật mà thị hiện tướng mỉm cười. Từ diện môn của Phật phóng ra vô lượng tia sáng màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng tía pha lê vàng bạc và màu lẫn lộn. Từ miệng phóng ra rồi, các tia sáng màu ấy nhiễu Phật ba vòng trở về nhập vào đảnh Phật.
 Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất chắp tay làm lễ rồi nói kệ hỏi Phật rằng:
 "Hùng mãnh Mâu Ni hiện thoại tướng
 Thương thế gian chẳng phải không nhơn
 Thế Tôn tối thắng xin nói cho
 Nhơn duyênĐại Tiên hiện tướng
 Thương xót chúng sanh hiện thoại ứng
 Thấy các Tu la cúng dường lớn
 Muốn thọ ký cho A Tu La
 Khiến đại chúng tôi được vui vẻ
 Nay có thắng tâm tin chẳng nghi
 Trong chúng đây có người phát tâm
 
 Thế Tôn biết tín căn họ rồi
 Thiền Nhơn Đạo Sư hiện tướng ấy
 Ngày nay ai phát tâm thanh tịnh
 Trong đại chúng ai sanh thắng tín
 Thế Tôn biết tín căn họ rồi
 Hiện thoại tướng mỉm cười tối diệu
 Nay đại chúng đây muốn biết rõ
 Đều thấy Như Lai hiện mỉm cười
 Hôm nay ai lại hàng ma oán
 Phật hiện mỉm cười vì người ấy
 Lành thay Đại Tiên hàng ma oán
 Mong dứt lòng nghi của đại chúng
 Nguyện Phật nói mau chớ chần chờ
 Cho đại chúng đây được biết rõ".
 Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo rằng:
 "Lành thay nghĩa hỏi của Tỳ Kheo
 Phật hiện thoại tướng lợi thế gian
 Phật nói quả báo không có thừa
 Nay ông nhứt tâm khéo lắng nghe
 Các A Tu La cúng dường Phật
 Để cầu Vô thượng thắng Bồ Đề
 Tâm ý Tu La không chỗ nương
 
 Như tay tại hư không chẳng chướng
 Tu La cúng dường Thế Tôn rồi
 Tâm ý chúng ấy đều thanh tịnh
 Đại trí đều bỏ đạo Tu La
 Với Trời Người từ lâu đã thích
 Chúng ấy ở đời vị lai sau
 Gặp gỡ hằng sa đại Đạo Sư
 Ở kiếp Thiện Danh được thành Phật
 Chư Phật ấy đồng hiệu Thiện Danh
 Số đúng sáu mươi na do tha
 Danh chấn mười phương soi thế gian
 Diễn nói pháp vô y vô trước
 Hay rộng độ thoát chúng Nhơn Thiên
 Các Phật độ ấy rất nghiêm tịnh
 Phật biết thế gian rời ngũ trược
 Tịnh Phật quốc độ ba ngàn cõi
 Số đúng sáu mươi na do tha
 Nước kia chẳng có ba ác đạo
 Do lòng mừng vui đất ruộng sạch
 Phật kia hùng mãnh Vô thượng Đại thừa
 Chư Như Lai kia được thọ mạng
 Ở đời sáu mươi do tha kiếp
 Diễn nói pháp không nơi y chỉ
 Mỗi mỗi Như Lai đều cũng vậy
 Sau khi Như Lai kia diệt độ
 Thế gian người trí đều cũng diệt
 Đủ số sáu mươi do tha kiếp
 Chánh pháp Phật ấy còn tại thế
 Chư Như Lai ấy đều riêng độ
 Số chúng sanh đông như hằng sa
 Chư Như Lai ấy số vô lượng
 Cõi thọ chánh pháp trụ cũng vậy
 Chư Như Lai kia hay thành thục
 Sáu mươi do tha số chúng sanh
 Đều khiến an trụ trong Đại thừa
 Thảy đều nối tiếp giống Tam bảo
 Hôm nay thọ ký cho Tu La
 Đấng Đại Tiên độ đời tuyên nói
 Trời Người nghe thọ ký nầy rồi
 Thâm tâm hớn hở được tịnh tín"
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19720)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23975)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41228)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19707)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24011)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21750)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23321)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27514)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26580)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29329)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33214)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20212)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25793)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20931)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31337)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38593)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21452)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44284)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29839)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42229)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22148)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45791)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32130)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23976)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24402)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29289)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33934)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27694)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32159)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21077)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28861)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21602)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28095)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22086)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21450)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19520)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19484)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19846)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19268)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29207)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20632)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28311)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23656)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33207)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31858)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21395)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39640)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21568)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19388)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26416)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24841)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21760)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22401)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29149)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22565)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20478)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23540)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21249)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35347)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24557)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant