Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12.02. Phảm Kim Tỳ La Thiên Thọ Ký Thứ Hai

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8294)
12.02. Phảm Kim Tỳ La Thiên Thọ Ký  Thứ Hai
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XII
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI

Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Huyền Trang
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

02. Phảm Kim Tỳ La Thiên Thọ
Thứ Hai

(Hán bộ đầu quyển 36 )

 Ở giữa đường , đức Thế Tôn làm cho chư Trưởng Giả chứng nhập thánh quả,dùng oai thế Như Lai mà vào thành Vương Xá, bốn chúng vây quanh oai nghi nghiêm chỉnh.
 Lúc ấy trong hàng chư Thiên Thần Dạ Xoa thủ hộ thành Vương Xá có Đại thiện thần Vương hiệu là Kim Tỳ La nghĩ rằng : nay đức Như Lai hình tướng rất lạ, là bực tốI thắng trong thế gian khó được gặp , đáng được sự cúng dường của Trời ,của Người.Chúng ta hôm nay phảI mang những món cúng thượng diệu dâng lên đức Như Lai.
 Suy nghĩ xong, Kim tỳ La Vương đem thức uống ăn tốI thắng đầy đủ hương vị diệu sắc trọn vẹn dâng lên đức Phật.
 Đức Thế Tôn thương sự hiến dâng ấy nên nạp thọ.
 Lúc ấy ,sáu muôn tám ngàn Đại dược xoa của Kim Tỳ La Vương thống lãnh ở trên hư không đều sanh lòng tùy hỉ dùng âm thanh thanh viễn xường rằng : lành thay,lành thay!
 Kim Tỳ La Vương bảo chúng Dạ Xoa rằng : “ Ta đã dâng lên đức Phật những món cúng vi diệu .Các người cũng nên đem món cúng dường hiến cho chư Tỳ Kheo tăng. Do đó các ngươi sẽ được lợi ích an lạc mãi mãi”.
 Chúng Dạ Xoa tuân lờI truyền dạy của Thần Vương đem món ăn thượng vị cúng dâng cho chư Tỳ Kheo Tăng.
 Chư Tăng xót thương nhận lấy đồ cúng ấy.
 Đức Thế Tônkhất thực mà vào thành Vương Xá .Khất thực xong, đức Phật trở về chỗ cũ.
 Có vô lượng ngàn chúng Thiên ,Long, Dạ Xoa, Càn Thát bà , A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La , Ma Hầu La Già , cùng vô lượng ngàn nhơn và phi nhơn ,vô luợng câu na do tha trăm ngàn chúng sanh khác đồng tùy tùng theo sau đức Phật.
 Bấy giờ đức Như Lai về đến chỗ tối thắng rộng rãi trải tọa cụ rồi ngồi như thường ngày.
 Kim Tỳ La Vương và bộ thuộc đem những hoa trời ,hoa mạn đà la ,hoa mạn thù sa , hoa ưu bát la, hoa bát đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi, cũng đem các thứ hương bột cọi trời rải trên đức Phật để cúng dường rồi chắp tay kính lễ đức Phật.Lễ Phật xong, chư Thần Vương đứng yên trước đức Phật.
 Đức Phật biết rõ tâm niệm của Kim Tỳ La Vương và bộ thuộc nên liền mỉm cười .
 Theo pháp thường của chư Phật mỗi khi mỉm cườI thì từ diện môn phóng ra nhiều thứ ánh sáng có vô lượng màu sắc , như là màu sáng xanh vàng đỏ trắng, màu sáng hồng , sáng vàng, sáng bạc, sáng màu thủy tinh. Ánh sáng ấy chiếu khắp vô lượng vô biên tất cả thế giớI che khuất cả ánh sáng mặt trời mặt trăng, dưới chiếu thấu địa ngục làm cho chúng sanh địa ngục vui vẻ, trên chiếu suốt trời Phạm Thế. Công việc chiếu soi đã xong, các ánh sáng ấy quay trở lạI vòng quanh đức Phật bảy lần, rồi hoặc rót vào đảnh đức Phật, hoặc rót vào hai vai hai gốI đức Phật.
 Theo pháp thường của chư Phật, lúc thọ ký cho chúng sanh địa ngục thì ánh sáng rót vào dướI hai bàn chưn đức Phật, nếu thọ ký cho súc sanh thì quang minh rót vào lưng đức Phật,nếu thọ ký cho loài quỷ thì quang minh rót vào trước bụng đức Phật, nếu thọ ký cho loài ngườI thì quang minh rót vào hông bên tả đức Phật,nếu thọ ký cho loài TrờI thì quang minh rót vào hông bên hữu đức Phật,nếu thọ ký cho bực Thanh Văn thì quang minh rót vào hai gốI đức phật, nếu thọ ký cho bực Độc Giác thì quang minh rót vào hai vai đức Phật,nếu lúc thọ ký cho chư đại Bồ Tát sẽ thành Vô thượng Chánh giác thi quang minh rót vào đỉnh đầu đức Phật.
 Trưởng Lão A Nan Đà thấy đức Thế Tôn mỉm cườI phóng quang ,Ngài liền trịch y thất điều vai hữu ,gốI hữu chấm đất chắp tay lễ chưn đức Phật rồI nói kệ bạch Phật :
 “Đấng soi sáng thế gian
 Cớ gì phóng quang minh
 Đấng lợi ích thế gian
 Cớ gì hiện mỉm cườI
 Nay ai gieo giống Thánh
 Làm nhơn Phật Bồ đề
 Nay thọ ký cho ai
 Ai đáng được giảI thoát
 ĐạI Đạo Sư hùng mãnh
 Chẳng vô cớ mà cườI
 Nguyện Mâu Ni sẽ nói
 Duyên cớ phóng quang minh ».
 Đức Thế Tôn liền nói kệ đáp Ngài A Nan :
 « Kim Tỳ La tịnh tâm
 Dâng những đồ cúng dường
 Cho đấng cứu thế gian
 Nên ta khiện mỉm cườI
 Báo Thần Vương hết rồI
 Sanh lên trời Đao LợI
 Hưởng mãn phước trời ấy
 Sanh lên trờI Dạ Ma
 Rồi lại sanh Đâu Suất
 Hưởng báo vui cõi Trời
 Mãn phước sanh loài người
 Làm bực vua trí huệ
 Cai quản vua bốn châu
 Tự tại Chuyển Luân Vương
 Mãn báo nhơn vương rồi
 Sanh lên trời Phạm Thế
 Trên trời và nhơn gian
 Luôn qua lại chẳng ngớt
 Thường hưởng thọ diệu lạc
 Hai mươi câu chi kiếp
 ^Rất sau bỏ nghôi vua
 Xuất gia cầu Phật đạo
 Đủ các thiện duyên rồi
 Thành Vô thượng Bồ đề
 Ba muôn chúng Dược Xoa
 Do dâng cúng đức Phật
 Bỏ báo Dược Xoa xong
 Sanh lên trờI Đao LợI
 Sau gặp Phật Di Lặc
 Được quả A La Hán
 Đã được truyền đạo hóa
 Liền gọi cúng dường Phật
 Cả chúng Dược Xoa ấy
 Vì an trụ Bồ đề
 Do nơi căn lành ấy
 Chẳng sanh các ác đạo
 Hoặc có ngàn Dược Xoa
 Thường cúng dường chư Phật
 Cầu Vô thượng Bồ đề
 Để lợI ích chúng sanh
 Hoặc hai ngàn ba ngàn
 Cầm hương hoa vòng hoa
 Sẽ cúng dường chư Phật
 Để được Phật Bồ đề
 Hoặc có nhiều câu chi
 Sẽ cúng dường chư Phật
 Tu tự tánh thanh tịnh
 Sau chứng đạI Bồ đề
 Kim Tỳ La Thần Vương
 Đủ sức đạI thần thông
 Cũng phát nguyện rộng lớn
 Tôi sẽ thành Chánh Giác
 Từng cúng dường chư Phật
 Phát đủ những hoằng thệ
 Nay lạI cúng dường ta
 Hướng đến đạo vô thượng
 Do sức thiện căn ấy
 Bỏ rờI các ác đạo
 Sẽ gặp Phật Di Lặc
 LạI dâng nhiều lọng báu
 Dâng nhiều lọng báu rồI
 LạI dâng nhiều y báu
 Dâng nhiều y phục rồI
 Liền bỏ nhà xuất gia
 Tròn đủ năm trăm năm
 Chuyên tu hành phạm hạnh
 Cầu tốI thượng Bồ đề
 Để lợI ích chúng sanh
 Vì thành tựu nguyện ấy
 Nên tu hành lục độ
 Suốt hằng hà sa kiếp
 Thường chuyên cần chẳng nghỉ
 A Nan ông phảI biết
 Vì thị hiện mà nói
 Hạnh thù thắng của họ
 Lại thêm quá số trên
 Như đã nói ví dụ
 Số kiếp hằng hà sa
 Được thấy chư Phật kia
 Sẽ cúng dường to lớn
 Lạ thay trí thắng diệu
 Lạ thay tâm vô thượng
 Các chúng ĐạI Đạo Sư
 Danh xưng chẳng gọI được
 Sau sẽ thành Chánh giác
 Như Lai Phật Thế Tôn
 Hiệu Ngài là Y Vương
 Vang khắp mười phưong cõi
 Bảy mươi câu chi năm
 Thuyết pháp độ chúng sanh
 Đấng Lưỡng Túc Tôn ấy
 Lâu sẽ nhập tịch diệt
 Thuyết pháp hai mươi hội
 Điều phục tâm chúng sanh
 Một đại hội tối hậu
 Trọn hai trăm ức năm
 Những đại hội đã nói
 Độ vô lượng Thanh Văn
 Như số lượng Thanh Văn
 Chúng Bồ tát cũng vậy
 LợI ích chúng sanh xong
 Phật mớI nhập Niết Bàn
 Chánh pháp trụ thế gian
 TrảI qua trăm ngàn năm
 Suốt trong năm trăm kiếp
 Tỳ Kheo ấy thành Phật
 Nơi mỗI mỗI kiếp ấy
 Ngàn đức Phật xuất hiện
 Những ngườI có trí huệ
 PhảI suy gẫm pháp thủy
 PhảI phát tâm dũng mãnh
 Hành đa văn chánh lý
 PhảI tu tập đa văn
 Do đây lớn trí huệ
 Bốn pháp nghĩa căn bổn
 Tế độ các Bồ Tát
 Là thí,giớI,văn, xả
 Đường Bồ đề hiền thiện
 Vì chúng nói pháp nầy
 Thừa vô thượng tối thắng
 Khai diễn đạo Thanh Văn
 Khéo dứt các lướI nghi
 Những ai có thỉnh hỏI
 Nay ta đều hứa khả
 Đấng chiếu thế khó gặp
 Hay nói pháp thâm diệu”.
 Kim Tỳ La Vương ở trước đức Phật được nghe thọ ký hớn hở vui mừng được chưa từng có ,nghĩ rằng : nay đức Thế Tôn sẽ lên núi Linh Thứu .Tôi phảI vun trồng chút í căn lành nơi đức Phật.
 Suy nghĩ xong ,Kim Tỳ La Vương bảo bộ thuộc rằng : “ Chúng ngươi nên biết rằng đức Như Lai sẽ lên núi Linh Thứu.Chúng ngươi phài tâm dũng mãnh tùy theo khả năng của mình mà sắm sửa cúng dường”.
 Liền đó Thần Vương cùng bộ thuộc rờI thành Vương Xá thẳng đến núi Linh Thứu, toàn con đường chặng giữa đều dọn hết cỏ rác gai góc ngói gạch sỏI đá,khắp nơi sạch sẽ như mặt gương sáng.Chúng Thần lạI rướI nước thơm rồI lót thảm tốt cùng rảI hoa đẹp khắp con đường ,xông hương thơm dọv theo bên dường và dựng những tráng phan, treo những bửu cái ,trên cao giăng che vớI những lụa màu,rồI lạI trổI những âm nhạc trờI .Con đường ấy rất rộng bằng suốt một lằn tên.Khắp nơi theo hai bên đường che rợp vớI những loài hoa mọc dướI nước như các thứ sen xanh vàng đỏ trắng, xen trong hoa sen có những chim đẹp như uyên ương. Dùng lụa màu dệt bằng chỉ vàng ròng trảI lên mặt đường, trên đó lạI trảI lướI bảy báu.
 Kim Tỳ La Vương trần thiết trang nghiêm con đường đức Phật sẽ đi qua xong, liền tự biến hóa thân mình rất cao lớn, cùng các bộ thuộc hớn hở vui mừng phát những tâm thù thắng như :
 Tâm sướng thích, tâm điều thiện, tâm nhu nhuyến,tâm thanh tịnh, tâm ly cái,ntâm sung mỹ, tâm quy y Phật,tâm quy y Pháp, tâm quy y Tăng, tâm Bồ đề bất động, tâm bất thốI chuyển,tâm vô đẳng ,tâm vô đẳng đẳng, tâm siêu tam giớI, tâm đạI từ,tâm đạI bi đốI vớI tất cả chúng sanh, tâm đạI hỉ,tâm đâi xả,tâm Phật pháp khí,tâm kiên ,tâm cố,tâm bất khả hoạI,tâm bất hủ bạI, tâm rờI bỏ bực Thanh VănĐộc Giác,tâm thành lập Bồ Tát địa.
 Phát và an trụ trong những tâm nguyện ấy ,chư Thần Vương đến chỗ đức Như Lai đảnh lễ chưn đức Phật đi nhiễu ba vòng đứng qua một bên chắp tay nói kệ bạch đức Phật rằng :
 “ Tôi đã vì Thế Tôn
 Sắm đồ cúng vô thượng
 Phật là đấng tôn quý
 Diễn nói pháp vô thượng
 Thập lực đều thành tựu
 An trụ các vô úy
 Những sự lợI chúng sanh
 Như Đạo Sư đã làm
 Phật đủ băm hai tướng
 Tám mươi tùy hình hảo
 ĐờI nhờ như mặt trờI
 Chiếu sáng khắp thế gian
 Chuyển vi diệu pháp luân
 MườI hai hành tốI thắng
 Tuyên bố pháp sâu diệu
 LợI ích các chúng sanh
 Hiển thị các thần biến
 Như nghi thức của Phật
 Vì nhiều câu chi chúng
 Mà làm sự lợI ích
 Vị lai chư ĐạI Hùng
 Giúp đờI như mặt nhựt
 Tuyên dương thánh pháp ấy
 Giác ngộ thành Vô Thượng
 Làm nhà làm thuyền bè
 Làm đường làm nẻo về
 Vì các chúng sanh manh
 Bố thí cho huệ nhãn
 Năm loài các chúng sanh
 Tôi sẽ làm chỗ dựa
 GiảI thoát các sự khổ
 Như chư Phật đã lià
 Tôi làm Lưỡng Túc Tôn
 Là trờI trong các trờI
 Thiên Đế, chúng Long Thần
 A Tu La thờ kính
 Sắm sửa đồ cúng dường
 Trong đời không gì bằng
 Tôi tạo nghiệp thượng diệu
 Không có ai tương tợ
 Như Pháp Vương Thế Tôn
 Đủ ba mươi hai tướng
 Tám mươi tướng phước diệu
 ĐờI không ai sánh kịp”.
 Đức Thế TônKim Tỳ La Vương mà nói kệ rằng :
 “Các ngườI cúng dường Phật
 Làm pháp nhơn tốI thượng
 Thù thắng trong hữu tình
 Chẳng khó được Bồ đề
 Cúng dường đấng Thế Tôn
 Chiếu sáng đờI nương theo
 Bực đáng được cúng dường
 Của TrờI, Rồng và NgườI
 Ngộ Bồ đề thượng diệu
 NgồI đạo thọ tốI thắng
 Dẹp trừ các ác ma
 Vì chúng sanh thuyết pháp ».
 Lúc bấy giờ đức Như Lai ở giữa đạI chúng dùng đạI oai đức, đạI thần thông, đạI tông thế và các thứ đạI tự tạI biến hóa mà phóng đạI quang minh chấn động cả đạI địa,hoa sen lớn mưa xuống khắp hư không ,trăm ngàn na do tha câu chi nhạc trờI đồng hòa tấu.Cả đạI chúng đều được chưa từng có,thấy thần biến ấy lạI càng kíng ngưỡng đức Phật hơn.
 Đức Như Lai chưn bước trên hoa sen lớn như bánh xe theo đường đã trang nghiêm mà đến núi Linh Thứu. Đến núi rồI, đức Phật bảo Ngài A Nan rằng : “Ông vì đức Như Laisắp đặt bửu tọa thù thắng,ta sẽ ngồI trên ấy vì muốn lợI ích cho tất cả chúng sanh mà nói kinh đạI thừa Bồ Tát hạnh sở nhơn tên là Vi Diệu Cát Tường Bồ Tát Tạng.Kinh ấy có thể làm cho núi nghi ngờ của tất cả chúng sanh lở sụp.Kinh ấy có thể làm cho lướI nghi ngờ của tất cả chúng sanh đứt tuyệt.Kinh ấy có thể làm cho gốc nghi ngờ của tất cả chúng sanh chẳng mọc được.Vì kinh đạI thừa ấy lợI ích an lạc các chúng sanh, ta vì thương xót đạI chúng và hàng thiên nhơn nên mớI mở dạy”.
 Ngài A Nan y theo lờI đức Phậtsắp đặt pháp tọa.Trong đạI chúng sáu mươi tám câu chi Thiên Tử cởI thượng y mà trảI trên pháp tọa.
 Đức Phật như thường lệ ngồI lên pháp tọa ngó chư Thiên Tử mà nói kê( rằng :
 “Chư Thiên trảI y phục
 Tối thắng thượng vi diệu
 Đại Đạo Sư cứu thế
 Ngồi yên trên pháp tọa
 Đến bờ kia cáp pháp
 Như Lai lên ngồi rồi
 Đại địa động sáu cách
 Khiến chúng đều vui mừng
 Phóng quang chiếu Phật độ
 Và chói các núi cao
 Thế Tôn hiện thần thông
 Tế độ người ưa pháp
 Chư Thiên ,Long và Nhơn
 Cưu Bàn Trà, Ngạ quỷ
 Những chúng Bố Đát Na
 Thấy nhau không chứng cách
 Trăm ngàn na do tha
 Câu chi các Thiên Tử
 Thấy Phật phóng quang minh
 Rất là khó gặp gỡ
 Vua Tần Bà Ta La
 Cùng các quan vây quanh
 Đến chỗ đức Thế Tôn
 Như Lai đời nương dựa
 Phật biết Trời,Rồng,Người
 Đại chúng đều ngồi xong
 Vì Lợi ích chúng sanh
 Nhìn ngó khắp bốn phương
 Tuyên cáo ngườI có nghi
 Nên hỏI nơi Thế Tôn
 Phật dìu dắt chúng sanh
 Khéo dứt trừ lướI nghi”.
 Lúc ấy bao nhiêu chúng sanh tron cõi ĐạI Thiên đều đến hộI họp để nghe pháp.Vì nghe pháp nên họ đều dứt lặng ngoạI duyên tâm an trụ một cảnh.
 Đức Phật bảo Ngài ĐạI Mục Kiền Liên rằng : “Ông coi hôm nay có Tỳ Kheo nào ở xa chưa về dự hộI thì nên mờI về”.
 Bấy giờ Ngài ĐạI Ca Diếp đương ở phía Nam núi Tuyết.Ngài ĐạI Mục Kiền Liên đã biết nên dùng thần thông đến thưa rằng :”Hôm nay đức Như Lai ở tạI núi Linh Thứu vì đạI chúng chư Thiên,Ma Vương,Phạm Vương, Sa Môn , Bà La Môn, A Tu La mà nói diệu pháp. Đức Thế Tôn đương chờ Ngài đấy.Ngài nên mau về,chớ để chúng tôi phảI chướng ngạI sự nghe pháp”.
 Ngài ĐạI Ca Diếp bảo Ngài ĐạI Mục Kiền Liên rằng : “ Ngài về trước ,tôi sẽ đến sau”.
 Nói xong, Ngài ĐạI Ca Diếp chẳng đứng dậy,hiện thần thông lực vào thành Vương Xá dẫn đạo bốn bộ chúng cùng theo Ngài đến núi Linh Thứu đảnh lể chưn đức Phật rồI ngồI gần bên đức Phật.
 Ngài ĐạI Mục Kiền Liên dùng thần thông lực về đến chỗ đức Phật đã thấy Ngài ĐạI Ca Diếp đã ngồI ở đó rồI liền thưa rằng : “ Thưa Ngài ĐạI Ca Diếp! Tôn giả đã thành tựu đạI thần thông lực rất mau chóng,có thể chẳng cần đứng dậy rờI chỗ ngồI mà hiện thần thông biến hóa như vậy”.
 Ngài ĐạI Ca Diếp nói : “Đức Thế Tôn khen Ngài là thần thông đệ nhứt,nay tôi hiện chút pháp mọn có gì đáng kể”.

 Pháp HộI Bồ Tát Tạng
 Phẩm Kim Tỳ La Vương Thọ Ký
 Thứ Hai
 Hết
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29867)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27128)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21747)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22218)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23597)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20392)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20038)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21925)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24719)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18955)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24697)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30948)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23956)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27748)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26494)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21281)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23198)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38087)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18796)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18418)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19924)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19012)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23126)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23862)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22773)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22889)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29553)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20620)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18684)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15825)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18821)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19632)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20137)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19927)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18101)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22902)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34147)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16404)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16903)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39181)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26022)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20077)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18811)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24032)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29085)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22895)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30917)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20995)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26836)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20652)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26229)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23308)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19810)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24645)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29988)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20201)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20390)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15130)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15819)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23845)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant