Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16.02. Phẩm Tịnh Phạn Vương Đến Phật

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8119)
16.02. Phẩm Tịnh Phạn Vương Đến Phật
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

 Phẩm Tịnh Phạn Vương đến Phật
Thứ Hai


 Bấy giờ đức Thế Tôn ăn cơm rửa tay rửa bát xong, hiện thoại tướng. Tức thì Tỳ Sa Môn Thiên Vương cùng vô lượng na do tha trăm ngàn ức chúng Dạ Xoa vây quanh, như thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay từ thiên cung, hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua hướng Bắc trên hư không. Chúng Dạ Xoa trước sau vây quanh chắp tay cung kính Phật và chúng Tăng.

 Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng Càn Thát Bà vây quanh từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua hướng Đông trên hư không, chúng Càn Thát Bà trước sau vây quanh chắp tay cung kính Phật và chúng Tăng.

 Tỳ Lâu Lặc Xoa Thiên Vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng Cưu Bàn Trà vây quanh từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua phương Nam trên hư không, chúng Cưu Bàn Trà trước sau vây quanh chắp tay cung kính Phật và Tăng.

 Tỳ Lâu Bát Xoa Thiên Vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Long vây quanh từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua phương Tây, trên hư không, chư Long trước sau vây quanh, chắp tay cung kính Phật và chúng Tỳ Kheo Tăng.

 Thích Đề Hoàn Nhơn Thiên Đế cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Thiên vây quanh từ cung trời Đao Lợi hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng trên hư không chắp tay cung kính Như LaiTỳ Kheo Tăng.

 Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Xuất Đà Thiên Vương, Hóa Lạc Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương, Đại Phạm Thiên Vương, Quang Âm Thiên Vương, Biến Tịnh Thiên Vương, Quảng Quả Thiên Vương, Tịnh Cư Thiên Vương đều cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Thiên vây quanh, từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng trên hư không chắp tay cung kính Như LaiTỳ Kheo Tăng.

 Tỳ Ma Chất Đa A Tu La Vương cùng sáu mươi na do tha quyến thuộc vây quanh, như thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay, từ cung điện mình hiện ra trước Phật, đảnh lễ chưn Phật, hiện tướng cung kính đứng qua một phía.

 Kim Sí Điểu Vương cùng tám vạn sáu ngàn chúng Ca Lâu La quyến thuộc vây quanh, từ cung điện mình hiện ra trước Phật đảnh lễ chưn Phật hiện tướng cung kính đứng qua một phía.

 Lại có tám ức các nhà ngoại đạo từ bốn phương đến mà nói kệ rằng :

 "Trong hư không thanh tịnh

 Vầng trăng tròn đêm rằm

 Vượt hơn các tinh tú

 Ánh sáng riêng chói rỡ

 Phật như trăng tròn sáng

 Diệt tối trừ ba cấu

 Hay siêu các ngoại đạo

 Dường trăng giữa hư không

 Mặt nhựt ngàn quang minh

 Hay trừ các tối tăm

 Vượt hơn ánh sáng trăng

 Làm nở ao hoa sen

 Phật quang hơn mặt nhựt

 Chiếu khắp cõi Đại Thiên

 Như Lai hay nở bày

 Rừng hoa sen Thanh Văn

 Thiên Chúa Kiều Thi Ca

 Ngồin tại nhà Thiện Pháp

 Vượt hơn chúng chư Thiên

 Chày kim cương chói rực

 Thập lực núi công đức

 Pháp Vương Lưỡng Túc Tôn

 Vượt hơn các ngoại đạo

 Dường như Thiên Đế Thích

 Tu Dạ Ma Thiên Vương

 Được chư Thiên cúng dường

 Ở trong hàng Thiên chúng

 Chói sáng ngồi bửu tọa

 Thập lực oai vô biên

 Vượt hơn các ác đạo

 Đức vô úy quang minh

 Nói rõ Bát chánh đạo

 Như Đâu Xuất Thiên Vương

 Chúng chư Thiên vây quanh

 Vượt hơn các Thiên chúng

 Đức lành mà chói sáng

 Điều Ngự Thầy Trời Người

 Được Bát Bộ chúng dường

 Vượt hơn các thế gian

 Vô úy nói pháp rõ

 Như Hóa Lạc Thiên Vương

 Ở tại trong thiên cung

 Vượt hơn chúng chư Thiên

 Công đức riêng sáng rõ

 Phật hơn các thế gian

 Rời được khỏi ba cõi

 Hay điều vua chưa điều

 Đủ thập lực sáng chói

 Như Tự Tại Thiên Vương

 Ở tại trong thiên cung

 Vượt hơn các Thiên chúng

 Đức lành mà rạng rỡ

 Phật quang minh như vậy

 Đầy đủ thập lực hành

 Vượt hơn chúng Trời Người

 Do công đức lành trước

 Như Đại Phạm Thiên Vương

 Vượt hơn các Phạm chúng

 Sáng rực lời ngọt hay

 Hiển bày đường Bát chánh

 Như Lai hơn Phạm Vương

 Vua trong chúng Sa Môn

 Quang minh soi ba cõi

 Chuyển pháp luân tứ đế

 Chúng tri kiến họp xong

 Trời Rồng Người nghe pháp

 Vua tối thắng Trời Người

 Tuyên nói đường Bát chánh

 Hư không đo lường được

 Biển lấy bình đong hết

 Núi Tu Di cân được

 Phật đức khó biết được".

 Bấy giờ Tịnh Phạn Vương nói với hàng Thích chủng rằng : "Nầy các Ngài ! Như mặt nhựt sắp mọc trước tiên hiện tướng sáng đẹp, như lúc sao mai mọc thì biết mặt nhựt sè mọc chẳng lâu. Cũng vậy, Ca Lưu Đà Di ở nơi đức Phật Như Lai Nhứt thiết chủng trí mà trước hiện tướng lành, Tỳ Kheo ấy nói công đức của Như Lai tức là tướng Nhứt thiết trí vậy. Các ông mau xếp đặt xe tốt, ta sẽ đến chỗ Phật ngự".

 Các Thích chủng tâu rằng : "Lành thay Đại vương ! Nay đã phải lúc, những thứ cần dùng nay đã lo xong".

 Vua lại truyền cho các quan từ thành Ca Tỳ La đến rừng Ni Câu Đà phải sửa sang đường xá, dùng cát mịn tốt trải đất, rải các thứ hoa treo những lục màu, trổi âm nhạc và các thứ ca vũ.

 Vua ngồi xe tốt xuất thành Ca Tỳ La thẳng đến vườn Ni Câu Đà. Sau xe vua có tám vạn bạch tượng cùng những châu báu xen lẫn trang nghiêm. Trên mỗi thớt tượng đều trần thiết tòa thất bửu rất lạ hi hữu. Sau đoàn voi, có tám vạn ngựa quí, trên mỗi ngựa quí đều có tràng vàng, ngựa và tràng đều trang nghiêm với bảy báu xinh đẹp đệ nhứt.

 Trong thành có vô lượng người nghiêm sức xe cộ : ngựa xanh xe xanh lọng xanh đao xanh y phục tất yên cương cả đều xanh cầm tràng xanh. Sau mỗi xe có trăm người y phục xanh đi theo. Vàng đỏ và trắng ba đội người ngựa ba màu kia cũng như vậy.

 Lại có hàng Thích chủng đều riêng nghiêm sức các thứ xe đẹp xanh vàng đỏ trắng : trang nghiêm nhiều màu, xe ngựa nhiều màu, nghiêm sức nhiều màu, mỗi xe ngựa đều có trăm người trang nghiêm nhiều màu.

 Đức Thế Tôn xa trông Tịnh Phạn Vương đến liền bảo chư Tỳ Kheo rằng : "Các ông muốn thấy chúng trời Đao Lợi đi dạo chơi thì nên xem Thích chủng xuất thành Ca Tỳ La. Tại sao ? Vì Thích chủng du hành cùng chư Thiên không khác".

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng :

 "Trong thành Ca Tỳ La Vệ kia

 Tịnh Phạn Đại Vươngquyến thuộc

 Tối Thắng Nhơn Vương hôm nay đến

 Lắng nghe lắng nghe Phật sẽ nói

 Tượng mã xe cộ hơn trăm ngàn

 Nhiều thứ trang nghiêm rất đẹp lạ

 Từ Ca Tỳ La mà dẫn ra

 Nhơn Vương bửu tạng và các xe

 Ngựa xanh xe xanh trang nghiêm xanh

 Y ohục người theo đều màu xanh

 Giày mang dao đeo thảy đều xanh

 Roi xanh cương xanh lạc lưới xanh

 Người áo xanh cầm phan lọng xanh

 Người ngựa đều xanh rất đẹp lạ

 Ngựa vàng xe vàng nghiêm sức vàng

 Người theo y phục đều màu vàng

 Giày mang dao đeo cũng đều vàng

 Roi vàng cương vàng lạc lưới vàng

 Người áo vàng cầm phan lọng vàng

 Người ngựa đều vàng rất đẹp lạ

 Ngựa đỏ xe đỏ nghiêm sức đỏ

 Người theo y phục đều màu đỏ

 Giày mang dao đeo cũng đều đỏ

 Roi đỏ cương đỏ lạc lưới đỏ

 Người áo đỏ cầm phan lọng đỏ

 Người ngựa đều đỏ rất đẹp lạ

 Ngựa trắng xe trắng trang nghiêm trắng

 Người theo y phục đều màu trắng

 Giày mang dao đeo cũng đều trắng

 Roi trắng cương trắng lạc lưới trắng

 Người áo trắng cầm phan lọng trắng

 Người ngựa đều trắng rất đẹp lạ

 Xe ngựa bốn màu trang nghiêm bốn

 Người theo y phục đều bốn màu

 Giày mang dao đeo cũng bốn màu

 Roi cương lạc lưới bốn màu đủ

 Người và phan lọng đều bốn màu

 Người ngựa bốn màu rất đẹp lạ

 Sau các xe kia trang nghiêm voi

 Số voi ấy đủ tám mươi ngàn

 Yên vàng nệm vàng trang nghiêm vàng

 Lưng voi đều có điện bảy báu

 Các thứ trang nghiêm ngựa rồng quí

 Số ngựa cũng đủ tám mươi ngàn

 Bảy báu trang nghiêm rất lạ đẹp

 Người phục sức đẹp theo sau xe

 Dùng những hoa đẹp rải đường ngự

 Dùng năm thứ hương làm thơm đất

 Treo những bình hương và lụa màu

 Tráng sĩ diễn trò đoàn ca vũ

 Nhiều thứ trang nghiêm khắp cả đường

 Hòa tấu âm nhạc theo sau vua".

 Tịnh Phạn Vương và đoàn tùy tùng đến vườn Ni Câu Đà xuống xe đi bộ vào.

 Đức Thế Tôn biết Phụ Vương từ lâu có lòng oán hận, vì độ Phụ Vương nên đức Phật bước lên hư không cao quá đầu người tự tại đi ra. Lúc đức Phật đi, bên hữu có Đại Phạm Thiên Vương, bên tả có Thiên Đế Thích, Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Xuất Thiên Vương, Hóa Lạc Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương đều cầm các thứ lọng trời cúng dường Như Lai.

 Bấy giờ Tỳ Sa Môn Thiên Vương và Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương ở phía Đông Như Lai quỳ gối chắp tay hiện tướng cung kính.

 Chúng chư Thiên các cõi trời Tứ Vương Thiên, Đao Lợi Thiên, Dạ Ma Thiên, Đâu Suất Thiên, Hóa Lạc ThiênTha Hóa Tự Tại Thiên ở giữa hư không mưa hoa trời ưu bát la, mạn đà la và hương bột chiên đàn, tấu các âm nhạcca vũ, lại mưa nước thơm, từ trước tới nay chưa từng thấy sự cúng dường Như Lai như vậy.

 Đức Như Lai lại hiện thần thông, do sức thần của Phật làm cho mọi người đều thấy rõ tướng dạng chư Thiên.

 Tịnh Phạn Vương thấy chư Thiên Tử cúng dường Như Lai, vua sanh lòng hi hữu, lại thấy lâu đài thất bửu nghiêm sức đầy cả hư không, Vua nói rằng : "Đức Như Lai ngày xưa lúc còn là đồng tử chẳng sanh lòng cố luyến nơi ngôi Chuyển Luân Thánh Vương cai trị tứ thiên hạ. Nay đức Như Lai ở trong tam thiên Đại Thiên thế giới làm đại Pháp Vươngvô số Trời và Người thị vệ. Nay tôi tại đây làm người đứng quanh".

 Tịnh Phạn Vương trịch y vai hữu gối hữu chấm đất đầu mặt lễ chưn Phật chắp tay bạch Phật rằng : "Đức Thế Tôn lúc sơ sanh không người phò trì mà tự đi bảy bước nhìn ngó mười phương rồi
 mới nói lời này : Ta ở thế gian tối tôn tối thắng, sẽ được độ thoát bờ lão bịnh tử. Lúc đó tôi rập đầu lạy chưn Thế TônThời gian sau Thế Tôn đến thôn ruộng ngồi trong bóng mát dưới cây Diêm Phù, mặt trời dầu đã xế về Tây mà bóng cây vẫn ở nguyên chỗ, còn có chư Thiên đồng sáu cõi trời ở trước Thế Tôn chắp tay làm lễ, lúc đó tôi cúi đầu lễ chưn đức Thế Tôn. Hôm nay, lần thứ ba, tôi lại cũng đầu mặt lễ chưn đức Thế Tôn".

 Tịnh Phạn Vương nói kệ rằng :

 "Lưỡng Túc Thế Tôn lúc sơ sanh

 Không người phò trì đi bảy bước

 Tự nói ta tối thắng trong đời

 Lúc ấy tôi lạy bực trí sáng

 Thế Tôn xuất thành đến thôn ruộng

 Bóng cây Diêm Phù che chẳng rời

 Lục thiên đồng tử dâng cúng dường

 Lúc ấy tôi lạy đấng Ứng Cúng

 Nay lần thứ ba tôi cúi lạy

 Cung kính đấng thương xót thế gian

 Đáng được Trời Người dâng cúng dường

 Đời không ai hơn được đức Phật

 Thế Tôn trước hiệu Tất Đạt Đa

 Tên ấy cha mẹ lấy làm mừng

 Mới biết Như Lai danh hiệu thiệt

 Được nguyện đầy đủ được cam lộ".

 Bấy giờ chư Thiên cõi dục vì đức Như Lai mà trải tòa sư tử, dùng thiên y vi diệu lót trên tòa và trải khắp vườn Ni Câu Đà, lại dùng thiên y kiếp ba thọ che giăng trên không. Đức Thế Tôn từ hư không xuống ngồi trên tòa sư tử. Tịnh Phạn Vươngquyến thuộc đầu mặt lạy chưn Phật rồi lui ngồi một phía. Chư Thiên cõi dục, cõi sắc cũng đảnh lễ đức Phật rồi lui ngồi một phía trên hư không.

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng :

 "Tịnh Phạn Đại Vươngquyến thuộc

 Đến chỗ Thế Tôn dâng cúng dường

 Từ thành Ca Tỳ La Vệ ra

 Đến vườn khả ái Ni Câu Đà

 Phật cùng vô lượng chúng vây quanh

 A Tu La VươngLong Vương

 Cưu Bàn Trà Vương Kim Sí Vương

 Càn Thát Bà Vươngquyến thuộc

 Dạ Xoa Đại Vương chúng quỉ thần

 Khẩn Na La Vương và Thiên Tử

 Tất cả đều sanh lòng mừng rỡ

 Dục giới lục thiên đã như vậy

 Sắc giới Phạm chúng Phụ Phạm Vương

 Quang Âm Biến Tịnhquyến thuộc

 Nhẫn đến Quảng Quả Tịnh Cư Thiên

 Sa Môn đại chúng Bà La Môn

 Tăng Khư Vệ Thế Ni Kiền Tử

 Cùng các ngoại đạo tất cả phái

 Thuật sĩ tu hành các thứ lạ

 Đại chúng bốn phương đều đến họp

 Như Lai tự hiện đại thần thông

 Khiến Tịnh Phạn VươngThích chủng

 Đều được tín tâm lòng mừng rỡ

 Như Lai khắp vì tất cả chúng

 Dùng lời vi diệu câu nghĩa hay

 Như Lai ý tại Tịnh Phạn Vương

 Hiện hóa các thứ thần thông lực

 Vua vốn chẳng cho Phật xuất gia

 Tướng sư ngày trước đoán đồng tử

 Tại gia tất làm Chuyển Luân Vương

 Vô lượng Nhơn chúng đồng phục thị

 Đầy đủ Thánh Vương bảy thứ báu

 Cũng lại có đủ bốn thần thông

 Như pháp trị chánh gìn quốc độ

 Kim Luân gồm trị tứ thiên hạ

 Bấy giờ Bồ Tát nói lời nầy

 Ta xưa vô lượng do tha kiếp

 Tất cả thời gian thường nói thiệt

 Phụ Vương lắng nghe lời ta nói

 Phụ Vương từ xưa đối với ta

 Từ đầu thiệt không lòng tin kính

 Muốn đem Luân Vương bảo ta làm

 Đem tứ thiên hạ sánh luyến tiếc

 Ví như thuở xưa có thần qui

 Theo biển thủy triều lên lục địa

 Hải thủy triều ấy rút về biển

 Thần qui sa vào trong giếng sâu

 Trong giếng ba ba hỏi hải qui

 Người từ nơi nào nay đến đây

 Hải qui trí rộng nói ba ba

 Tôi theo thủy triều sa xuống giếng

 Lúc thủy triều kia rút về biển

 Tôi đi chậm chạp theo chẳng kịp

 Vì vậy nay tôi mất thời tiết

 Sa vào giếng nhỏ cùng anh ở

 Ba ba lại hỏi hải qui rằng

 Nước biển có nhiều hơn nước giếng

 Há lại rộng lớn hơn đây chăng

 Là lớn hay nhỏ xin nói lẹ

 Hải qui trí rộng bảo ba ba

 Anh ngu ở chỗ người đào bới

 Tôi ở trong nước biển cả kia

 Đã trải quá lâu nhiều năm tháng

 Còn chẳng biết được trong lòng biển

 Huống là thấu rõ bờ biển ấy

 Ngày xưa Phụ Vương điều chẳng biết

 Sức đại thần thông oai đức tôi

 Muốn đem Luân Vương tứ thiên hạ

 Hào quí trong đời quyến rũ ta

 Nay ta hiện làm Pháp Luân Vương

 Thống lãnh tam thiên Đại Thiên giới

 Như pháp chánh trị lìa vũ khí

 Được Bát Bộ chúng đồng cúng dường

 Nay ta xưng tụng lời ngày xưa

 Nên đến ứng hiện đại chúng nầy

 Dùng sức thần thông tu tâm mình

 Dùng niệm từ bi triệu tập chúng

 Tất cả các cõi đều vân hội

 Đồng muốn Phụ Vương được tịnh tín".
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12515)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10415)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12368)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11673)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28840)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12071)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13027)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11474)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12393)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17474)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53111)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35516)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21431)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10705)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19278)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12444)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26074)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13337)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14410)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16105)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13743)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16872)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17614)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13157)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12553)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11639)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11644)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14525)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20504)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19027)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19628)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18700)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12217)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12344)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13892)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15062)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15057)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14014)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15545)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11420)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17214)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15001)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20250)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14637)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13885)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11748)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15085)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13019)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22915)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14577)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11695)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13187)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16913)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18367)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11958)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11517)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15875)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12901)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18937)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18449)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant