Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16.02. Phẩm Tịnh Phạn Vương Đến Phật

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8110)
16.02. Phẩm Tịnh Phạn Vương Đến Phật
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

 Phẩm Tịnh Phạn Vương đến Phật
Thứ Hai


 Bấy giờ đức Thế Tôn ăn cơm rửa tay rửa bát xong, hiện thoại tướng. Tức thì Tỳ Sa Môn Thiên Vương cùng vô lượng na do tha trăm ngàn ức chúng Dạ Xoa vây quanh, như thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay từ thiên cung, hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua hướng Bắc trên hư không. Chúng Dạ Xoa trước sau vây quanh chắp tay cung kính Phật và chúng Tăng.

 Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng Càn Thát Bà vây quanh từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua hướng Đông trên hư không, chúng Càn Thát Bà trước sau vây quanh chắp tay cung kính Phật và chúng Tăng.

 Tỳ Lâu Lặc Xoa Thiên Vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng Cưu Bàn Trà vây quanh từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua phương Nam trên hư không, chúng Cưu Bàn Trà trước sau vây quanh chắp tay cung kính Phật và Tăng.

 Tỳ Lâu Bát Xoa Thiên Vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Long vây quanh từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua phương Tây, trên hư không, chư Long trước sau vây quanh, chắp tay cung kính Phật và chúng Tỳ Kheo Tăng.

 Thích Đề Hoàn Nhơn Thiên Đế cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Thiên vây quanh từ cung trời Đao Lợi hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng trên hư không chắp tay cung kính Như LaiTỳ Kheo Tăng.

 Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Xuất Đà Thiên Vương, Hóa Lạc Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương, Đại Phạm Thiên Vương, Quang Âm Thiên Vương, Biến Tịnh Thiên Vương, Quảng Quả Thiên Vương, Tịnh Cư Thiên Vương đều cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Thiên vây quanh, từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng trên hư không chắp tay cung kính Như LaiTỳ Kheo Tăng.

 Tỳ Ma Chất Đa A Tu La Vương cùng sáu mươi na do tha quyến thuộc vây quanh, như thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay, từ cung điện mình hiện ra trước Phật, đảnh lễ chưn Phật, hiện tướng cung kính đứng qua một phía.

 Kim Sí Điểu Vương cùng tám vạn sáu ngàn chúng Ca Lâu La quyến thuộc vây quanh, từ cung điện mình hiện ra trước Phật đảnh lễ chưn Phật hiện tướng cung kính đứng qua một phía.

 Lại có tám ức các nhà ngoại đạo từ bốn phương đến mà nói kệ rằng :

 "Trong hư không thanh tịnh

 Vầng trăng tròn đêm rằm

 Vượt hơn các tinh tú

 Ánh sáng riêng chói rỡ

 Phật như trăng tròn sáng

 Diệt tối trừ ba cấu

 Hay siêu các ngoại đạo

 Dường trăng giữa hư không

 Mặt nhựt ngàn quang minh

 Hay trừ các tối tăm

 Vượt hơn ánh sáng trăng

 Làm nở ao hoa sen

 Phật quang hơn mặt nhựt

 Chiếu khắp cõi Đại Thiên

 Như Lai hay nở bày

 Rừng hoa sen Thanh Văn

 Thiên Chúa Kiều Thi Ca

 Ngồin tại nhà Thiện Pháp

 Vượt hơn chúng chư Thiên

 Chày kim cương chói rực

 Thập lực núi công đức

 Pháp Vương Lưỡng Túc Tôn

 Vượt hơn các ngoại đạo

 Dường như Thiên Đế Thích

 Tu Dạ Ma Thiên Vương

 Được chư Thiên cúng dường

 Ở trong hàng Thiên chúng

 Chói sáng ngồi bửu tọa

 Thập lực oai vô biên

 Vượt hơn các ác đạo

 Đức vô úy quang minh

 Nói rõ Bát chánh đạo

 Như Đâu Xuất Thiên Vương

 Chúng chư Thiên vây quanh

 Vượt hơn các Thiên chúng

 Đức lành mà chói sáng

 Điều Ngự Thầy Trời Người

 Được Bát Bộ chúng dường

 Vượt hơn các thế gian

 Vô úy nói pháp rõ

 Như Hóa Lạc Thiên Vương

 Ở tại trong thiên cung

 Vượt hơn chúng chư Thiên

 Công đức riêng sáng rõ

 Phật hơn các thế gian

 Rời được khỏi ba cõi

 Hay điều vua chưa điều

 Đủ thập lực sáng chói

 Như Tự Tại Thiên Vương

 Ở tại trong thiên cung

 Vượt hơn các Thiên chúng

 Đức lành mà rạng rỡ

 Phật quang minh như vậy

 Đầy đủ thập lực hành

 Vượt hơn chúng Trời Người

 Do công đức lành trước

 Như Đại Phạm Thiên Vương

 Vượt hơn các Phạm chúng

 Sáng rực lời ngọt hay

 Hiển bày đường Bát chánh

 Như Lai hơn Phạm Vương

 Vua trong chúng Sa Môn

 Quang minh soi ba cõi

 Chuyển pháp luân tứ đế

 Chúng tri kiến họp xong

 Trời Rồng Người nghe pháp

 Vua tối thắng Trời Người

 Tuyên nói đường Bát chánh

 Hư không đo lường được

 Biển lấy bình đong hết

 Núi Tu Di cân được

 Phật đức khó biết được".

 Bấy giờ Tịnh Phạn Vương nói với hàng Thích chủng rằng : "Nầy các Ngài ! Như mặt nhựt sắp mọc trước tiên hiện tướng sáng đẹp, như lúc sao mai mọc thì biết mặt nhựt sè mọc chẳng lâu. Cũng vậy, Ca Lưu Đà Di ở nơi đức Phật Như Lai Nhứt thiết chủng trí mà trước hiện tướng lành, Tỳ Kheo ấy nói công đức của Như Lai tức là tướng Nhứt thiết trí vậy. Các ông mau xếp đặt xe tốt, ta sẽ đến chỗ Phật ngự".

 Các Thích chủng tâu rằng : "Lành thay Đại vương ! Nay đã phải lúc, những thứ cần dùng nay đã lo xong".

 Vua lại truyền cho các quan từ thành Ca Tỳ La đến rừng Ni Câu Đà phải sửa sang đường xá, dùng cát mịn tốt trải đất, rải các thứ hoa treo những lục màu, trổi âm nhạc và các thứ ca vũ.

 Vua ngồi xe tốt xuất thành Ca Tỳ La thẳng đến vườn Ni Câu Đà. Sau xe vua có tám vạn bạch tượng cùng những châu báu xen lẫn trang nghiêm. Trên mỗi thớt tượng đều trần thiết tòa thất bửu rất lạ hi hữu. Sau đoàn voi, có tám vạn ngựa quí, trên mỗi ngựa quí đều có tràng vàng, ngựa và tràng đều trang nghiêm với bảy báu xinh đẹp đệ nhứt.

 Trong thành có vô lượng người nghiêm sức xe cộ : ngựa xanh xe xanh lọng xanh đao xanh y phục tất yên cương cả đều xanh cầm tràng xanh. Sau mỗi xe có trăm người y phục xanh đi theo. Vàng đỏ và trắng ba đội người ngựa ba màu kia cũng như vậy.

 Lại có hàng Thích chủng đều riêng nghiêm sức các thứ xe đẹp xanh vàng đỏ trắng : trang nghiêm nhiều màu, xe ngựa nhiều màu, nghiêm sức nhiều màu, mỗi xe ngựa đều có trăm người trang nghiêm nhiều màu.

 Đức Thế Tôn xa trông Tịnh Phạn Vương đến liền bảo chư Tỳ Kheo rằng : "Các ông muốn thấy chúng trời Đao Lợi đi dạo chơi thì nên xem Thích chủng xuất thành Ca Tỳ La. Tại sao ? Vì Thích chủng du hành cùng chư Thiên không khác".

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng :

 "Trong thành Ca Tỳ La Vệ kia

 Tịnh Phạn Đại Vươngquyến thuộc

 Tối Thắng Nhơn Vương hôm nay đến

 Lắng nghe lắng nghe Phật sẽ nói

 Tượng mã xe cộ hơn trăm ngàn

 Nhiều thứ trang nghiêm rất đẹp lạ

 Từ Ca Tỳ La mà dẫn ra

 Nhơn Vương bửu tạng và các xe

 Ngựa xanh xe xanh trang nghiêm xanh

 Y ohục người theo đều màu xanh

 Giày mang dao đeo thảy đều xanh

 Roi xanh cương xanh lạc lưới xanh

 Người áo xanh cầm phan lọng xanh

 Người ngựa đều xanh rất đẹp lạ

 Ngựa vàng xe vàng nghiêm sức vàng

 Người theo y phục đều màu vàng

 Giày mang dao đeo cũng đều vàng

 Roi vàng cương vàng lạc lưới vàng

 Người áo vàng cầm phan lọng vàng

 Người ngựa đều vàng rất đẹp lạ

 Ngựa đỏ xe đỏ nghiêm sức đỏ

 Người theo y phục đều màu đỏ

 Giày mang dao đeo cũng đều đỏ

 Roi đỏ cương đỏ lạc lưới đỏ

 Người áo đỏ cầm phan lọng đỏ

 Người ngựa đều đỏ rất đẹp lạ

 Ngựa trắng xe trắng trang nghiêm trắng

 Người theo y phục đều màu trắng

 Giày mang dao đeo cũng đều trắng

 Roi trắng cương trắng lạc lưới trắng

 Người áo trắng cầm phan lọng trắng

 Người ngựa đều trắng rất đẹp lạ

 Xe ngựa bốn màu trang nghiêm bốn

 Người theo y phục đều bốn màu

 Giày mang dao đeo cũng bốn màu

 Roi cương lạc lưới bốn màu đủ

 Người và phan lọng đều bốn màu

 Người ngựa bốn màu rất đẹp lạ

 Sau các xe kia trang nghiêm voi

 Số voi ấy đủ tám mươi ngàn

 Yên vàng nệm vàng trang nghiêm vàng

 Lưng voi đều có điện bảy báu

 Các thứ trang nghiêm ngựa rồng quí

 Số ngựa cũng đủ tám mươi ngàn

 Bảy báu trang nghiêm rất lạ đẹp

 Người phục sức đẹp theo sau xe

 Dùng những hoa đẹp rải đường ngự

 Dùng năm thứ hương làm thơm đất

 Treo những bình hương và lụa màu

 Tráng sĩ diễn trò đoàn ca vũ

 Nhiều thứ trang nghiêm khắp cả đường

 Hòa tấu âm nhạc theo sau vua".

 Tịnh Phạn Vương và đoàn tùy tùng đến vườn Ni Câu Đà xuống xe đi bộ vào.

 Đức Thế Tôn biết Phụ Vương từ lâu có lòng oán hận, vì độ Phụ Vương nên đức Phật bước lên hư không cao quá đầu người tự tại đi ra. Lúc đức Phật đi, bên hữu có Đại Phạm Thiên Vương, bên tả có Thiên Đế Thích, Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Xuất Thiên Vương, Hóa Lạc Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương đều cầm các thứ lọng trời cúng dường Như Lai.

 Bấy giờ Tỳ Sa Môn Thiên Vương và Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương ở phía Đông Như Lai quỳ gối chắp tay hiện tướng cung kính.

 Chúng chư Thiên các cõi trời Tứ Vương Thiên, Đao Lợi Thiên, Dạ Ma Thiên, Đâu Suất Thiên, Hóa Lạc ThiênTha Hóa Tự Tại Thiên ở giữa hư không mưa hoa trời ưu bát la, mạn đà la và hương bột chiên đàn, tấu các âm nhạcca vũ, lại mưa nước thơm, từ trước tới nay chưa từng thấy sự cúng dường Như Lai như vậy.

 Đức Như Lai lại hiện thần thông, do sức thần của Phật làm cho mọi người đều thấy rõ tướng dạng chư Thiên.

 Tịnh Phạn Vương thấy chư Thiên Tử cúng dường Như Lai, vua sanh lòng hi hữu, lại thấy lâu đài thất bửu nghiêm sức đầy cả hư không, Vua nói rằng : "Đức Như Lai ngày xưa lúc còn là đồng tử chẳng sanh lòng cố luyến nơi ngôi Chuyển Luân Thánh Vương cai trị tứ thiên hạ. Nay đức Như Lai ở trong tam thiên Đại Thiên thế giới làm đại Pháp Vươngvô số Trời và Người thị vệ. Nay tôi tại đây làm người đứng quanh".

 Tịnh Phạn Vương trịch y vai hữu gối hữu chấm đất đầu mặt lễ chưn Phật chắp tay bạch Phật rằng : "Đức Thế Tôn lúc sơ sanh không người phò trì mà tự đi bảy bước nhìn ngó mười phương rồi
 mới nói lời này : Ta ở thế gian tối tôn tối thắng, sẽ được độ thoát bờ lão bịnh tử. Lúc đó tôi rập đầu lạy chưn Thế TônThời gian sau Thế Tôn đến thôn ruộng ngồi trong bóng mát dưới cây Diêm Phù, mặt trời dầu đã xế về Tây mà bóng cây vẫn ở nguyên chỗ, còn có chư Thiên đồng sáu cõi trời ở trước Thế Tôn chắp tay làm lễ, lúc đó tôi cúi đầu lễ chưn đức Thế Tôn. Hôm nay, lần thứ ba, tôi lại cũng đầu mặt lễ chưn đức Thế Tôn".

 Tịnh Phạn Vương nói kệ rằng :

 "Lưỡng Túc Thế Tôn lúc sơ sanh

 Không người phò trì đi bảy bước

 Tự nói ta tối thắng trong đời

 Lúc ấy tôi lạy bực trí sáng

 Thế Tôn xuất thành đến thôn ruộng

 Bóng cây Diêm Phù che chẳng rời

 Lục thiên đồng tử dâng cúng dường

 Lúc ấy tôi lạy đấng Ứng Cúng

 Nay lần thứ ba tôi cúi lạy

 Cung kính đấng thương xót thế gian

 Đáng được Trời Người dâng cúng dường

 Đời không ai hơn được đức Phật

 Thế Tôn trước hiệu Tất Đạt Đa

 Tên ấy cha mẹ lấy làm mừng

 Mới biết Như Lai danh hiệu thiệt

 Được nguyện đầy đủ được cam lộ".

 Bấy giờ chư Thiên cõi dục vì đức Như Lai mà trải tòa sư tử, dùng thiên y vi diệu lót trên tòa và trải khắp vườn Ni Câu Đà, lại dùng thiên y kiếp ba thọ che giăng trên không. Đức Thế Tôn từ hư không xuống ngồi trên tòa sư tử. Tịnh Phạn Vươngquyến thuộc đầu mặt lạy chưn Phật rồi lui ngồi một phía. Chư Thiên cõi dục, cõi sắc cũng đảnh lễ đức Phật rồi lui ngồi một phía trên hư không.

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng :

 "Tịnh Phạn Đại Vươngquyến thuộc

 Đến chỗ Thế Tôn dâng cúng dường

 Từ thành Ca Tỳ La Vệ ra

 Đến vườn khả ái Ni Câu Đà

 Phật cùng vô lượng chúng vây quanh

 A Tu La VươngLong Vương

 Cưu Bàn Trà Vương Kim Sí Vương

 Càn Thát Bà Vươngquyến thuộc

 Dạ Xoa Đại Vương chúng quỉ thần

 Khẩn Na La Vương và Thiên Tử

 Tất cả đều sanh lòng mừng rỡ

 Dục giới lục thiên đã như vậy

 Sắc giới Phạm chúng Phụ Phạm Vương

 Quang Âm Biến Tịnhquyến thuộc

 Nhẫn đến Quảng Quả Tịnh Cư Thiên

 Sa Môn đại chúng Bà La Môn

 Tăng Khư Vệ Thế Ni Kiền Tử

 Cùng các ngoại đạo tất cả phái

 Thuật sĩ tu hành các thứ lạ

 Đại chúng bốn phương đều đến họp

 Như Lai tự hiện đại thần thông

 Khiến Tịnh Phạn VươngThích chủng

 Đều được tín tâm lòng mừng rỡ

 Như Lai khắp vì tất cả chúng

 Dùng lời vi diệu câu nghĩa hay

 Như Lai ý tại Tịnh Phạn Vương

 Hiện hóa các thứ thần thông lực

 Vua vốn chẳng cho Phật xuất gia

 Tướng sư ngày trước đoán đồng tử

 Tại gia tất làm Chuyển Luân Vương

 Vô lượng Nhơn chúng đồng phục thị

 Đầy đủ Thánh Vương bảy thứ báu

 Cũng lại có đủ bốn thần thông

 Như pháp trị chánh gìn quốc độ

 Kim Luân gồm trị tứ thiên hạ

 Bấy giờ Bồ Tát nói lời nầy

 Ta xưa vô lượng do tha kiếp

 Tất cả thời gian thường nói thiệt

 Phụ Vương lắng nghe lời ta nói

 Phụ Vương từ xưa đối với ta

 Từ đầu thiệt không lòng tin kính

 Muốn đem Luân Vương bảo ta làm

 Đem tứ thiên hạ sánh luyến tiếc

 Ví như thuở xưa có thần qui

 Theo biển thủy triều lên lục địa

 Hải thủy triều ấy rút về biển

 Thần qui sa vào trong giếng sâu

 Trong giếng ba ba hỏi hải qui

 Người từ nơi nào nay đến đây

 Hải qui trí rộng nói ba ba

 Tôi theo thủy triều sa xuống giếng

 Lúc thủy triều kia rút về biển

 Tôi đi chậm chạp theo chẳng kịp

 Vì vậy nay tôi mất thời tiết

 Sa vào giếng nhỏ cùng anh ở

 Ba ba lại hỏi hải qui rằng

 Nước biển có nhiều hơn nước giếng

 Há lại rộng lớn hơn đây chăng

 Là lớn hay nhỏ xin nói lẹ

 Hải qui trí rộng bảo ba ba

 Anh ngu ở chỗ người đào bới

 Tôi ở trong nước biển cả kia

 Đã trải quá lâu nhiều năm tháng

 Còn chẳng biết được trong lòng biển

 Huống là thấu rõ bờ biển ấy

 Ngày xưa Phụ Vương điều chẳng biết

 Sức đại thần thông oai đức tôi

 Muốn đem Luân Vương tứ thiên hạ

 Hào quí trong đời quyến rũ ta

 Nay ta hiện làm Pháp Luân Vương

 Thống lãnh tam thiên Đại Thiên giới

 Như pháp chánh trị lìa vũ khí

 Được Bát Bộ chúng đồng cúng dường

 Nay ta xưng tụng lời ngày xưa

 Nên đến ứng hiện đại chúng nầy

 Dùng sức thần thông tu tâm mình

 Dùng niệm từ bi triệu tập chúng

 Tất cả các cõi đều vân hội

 Đồng muốn Phụ Vương được tịnh tín".
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11650)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11974)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11126)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11362)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12082)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12574)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10779)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18003)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11739)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9963)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10189)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12362)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15361)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11260)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14342)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12122)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15384)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12015)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12426)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11197)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12098)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10630)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12568)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13182)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14854)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12707)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16589)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19681)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12277)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11869)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13550)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11967)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11854)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11648)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12780)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12629)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15673)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13640)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12915)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9885)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18029)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11187)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9093)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12195)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13072)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10324)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12208)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15330)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16619)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12233)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11498)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14284)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14163)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24625)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10708)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant