Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dẫn Nhập

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 13714)
Dẫn Nhập

Dẫn Nhập

Thích Như Thạch
(Trần Ngọc Giao)

Nhập Bồ Tát Hạnh 
Đạo Luận

Nói một cách tổng quát , nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa : Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh . Toàn bộ luận phân làm mười chương . 

Chương thứ nhất :
Những lợi lạc của tâm Bồ Ðề ,
Khuyến khích chúng sinh phát tâm Bồ Ðề chân thực .
Chương thứ hai :
Sám hối tội nghiệp ,
Kế đó tu tùy hỉ
Khuyến thỉnhhồi hướng phúc đức rộng lớn .
Chương thứ ba :

Gìn giữ tâm Bồ Ðề ,
Phát khởi tâm Bồ Ðề nguyện ;
Cùng thọ giới Bồ Tát .
Chương thứ tư :

Không buông lung ,
Tu tập hạnh không buông lung ;
Hầu tránh vi phạm Bồ Tát học xứ .
Chương thứ năm :

Giữ gìn chánh tri ,
Cho biết làm thế nào để giữ gìn Bồ Tát học xứ .
Chương thứ sáu :

Nhẫn nhục ,
Dạy tu nhẫn nhục trừ khử tâm chướng ngại
trong sự tu tập Bồ Tát hạnh .
Chương thứ bảy :
Tinh tấn ,
Vì muốn được tăng trưởng Bồ Tát hạnh ,
Phải tinh cần tu tập .
Chương thứ tám :

Thiền định ,
Trước tiên tu tĩnh lự để đối trị hôn trầm , tán loạn
( Đặc biệt quở trách sự tham dục ) .
Sau đó tiến thêm một bước tu tập pháp môn tự tha hoán
( Trao đổi mình và người ) ,
Để tăng trưởng tâm Bồ Ðề thế tục .
Chương thứ chín :

Trí Huệ ,
Vì muốn thông đạt thực tướng của chư pháp ,
Dẫn đến tâm Bồ Ðề thắng nghĩa .
Hầu có thể đoạn trừ phiền não ,
Nên phải có trí huệ .
Chương thứ mười :

Hồi hướng ,
Đem tất cả công đức của nghiệp lành ;
Hồi hướng đến tất cả chúng sinh .
Phần trên là đại ý nội dung của bộ luận này .
Nếu qui nạp lại , có thể chia làm bốn phần :

Phần 1 :

Ba chương đầu là tông chỉ chủ yếu , đối với chúng sinh chưa phát tâm . Dẫn phát thế tục tâm nguyện Bồ Ðề và tâm hạnh Bồ Ðề .

Phần 2 :

Ba chương Không buông lung , Giữ gìn chánh tri , Nhẫn nhục . Chỉ dẫn , khuyến khích thế nào giữ gìn tâm Bồ Ðề . cùng nghiêm trì giới luật Bồ Tát . Không để ngoại duyên làm ô nhiễm , thoái thất .

Phần 3 : 

Ba chương Tinh tiến , Thiền định , Trí tuệ . Một mặt giúp hành giả tăng tiến tâm Bồ Ðề thế tục , một mặt đem hành giả đến sự phát sinh tâm Bồ Ðề thắng nghĩa , thuần tịnh không nhiễm . Cùng y vào đây thực hành xuất thế gian Ba la mật , tăng trưởng phúc tuệ tư lương , tăng tiến cho đến lúc thành Phật .

Phần 4 :

Cuối cùng là chương Hồi hướng . Hồi hướng phát nguyện , đây cũng là một phương cách tăng trưởng vô tận phúc đức .

Nếu từ khía cạnh khác , theo quan điểm chính ngài Tịch Thiên trong quyển Học Xứ Tập Yếu, có thể giải thích như sau :

1
Tông chỉ chủ yếu ba chương đầu : Muốn dẫn phát một loại ý nguyện tối thù thắng . Nguyện đem thân thể , tài sản , thiện căn của mình . Hoàn toàn bố thí cho tất cả chúng sinh . Hơn nữa , bắt đầu chân thành tu tập hạnh Bồ Tát .
2
Ba chương Không buông lung , v . v . . . Chủ yếu muốn nói đến quá trình tu học . Làm thế nào để giữ gìn thân thể , tài sản , thiện căn để thuận tiện cho việc lợi ích chúng sinh .
3
Bốn chương cuối : Muốn chỉ đạo hành giả , sau khi giữ gìn thân thể, tài sản v . v . . . Làm thế nào tiến thêm một bước trong công việc tịnh hóa cùng tăng trưởng .

Nói một cách tổng quát, nội dung chủ yếu của bộ Nhập Bồ Tát Hạnh dùng để chỉ dẫn hành giả trong quá trình tu học hạnh Bồ Tát . Làm sao tu tập lục độ vạn hạnh, để thuận tiện dùng những phương thức bố thí , giữ gìn , tịnh hóa cùng tăng trưởng thân thể , tài sản , thiện căn v . V . . . Trong việc lợi tế quần sinh

Tịch Thiên trong quyển Học Xứ Tập Yếu . Chương Học tập bố thí nói : “ Ðem thân thể , tài vật cùng thiện căn hoàn toàn bố thí cho tất cả hữu tình . Hơn nữa , phải giữ gìn , tịnh hoá cùng tăng trưởng chúng. Ðây là yếu lĩnh của Bồ Tát học xứ ” . 

Tại cuối chương , Tịch Thiên dẫn kinh Bảo Vân để kết luận như sau : “ Thí xả là Bồ Ðề của Bồ Tát ” . Nhập Bồ Tát Hạnh , chương thứ ba, bài kệ 10 - 11 cũng nói : 

“ Vì muốn thành tựu sự lợi ích của tất cả hữu tình .
Con bố thí thân mệnh mình không chút luyến tiếc .
Bố thí tất cả tài sản cùng thiện căn phúc đức .
Nếu có thể từ đáy lòng thí xả tất cả thân thể , tài sản , thiện căn .
Con sẽ vượt qua tất cả khổ, thành tựu Niết Bàn ” .

Do đây , có thể thấy được Tịch Thiên rất chú trọng đến sự tu tập bố thí . Từ cái nhìn của ngài , chữ Xả là tổng trì trong sự hành trì của cả Ðại thừa lẫn Tiểu thừa . Hành giả Tiểu thừa , do vì xả ly tất cả sự tham luyến đối với tam giới mà chứng được sự diệu lạc của Niết Bàn

Hành giả Ðại thừa , tiến thêm một bước. Xả bỏ luôn sự diệu lạc của Niết Bàn , đạt tới cái gọi là : “ Trí không trụ ba cõi . Bi không trụ Niết Bàn ” . Chính là cảnh giới vô trụ của vô thượng Bồ Ðề .

Chính Tịch Thiên nghĩ rằng : 

Tu tập bố thítrọng yếu nhất trong quá trình tu học Bồ Tát hạnh . Vì thế ngài không lập riêng chương Bố thí , mà đem quan niệm “ Thí xả tất cả ” vào trong tất cả các chương . Nhân đây , trong mỗi chương của quyển Nhập Bồ Tát Hạnh . Chúng ta có thể thấy rõ ý nghĩa của sự “ Thí xả tất cả ” này .

Thuật Ngữ 

Tara : Là một hóa thân nữ của Quán Thế Âm . Trong Phật giáo Ấn độvà Tây tạng nói đến rất nhiều . Quán Thế Âm, khi nhìn thấy chúng sinh đau khổ , ngài nhỏ lệ từ bi và giọt lệ này rơi xuống hóa thành Tara .
Văn Thù Bồ tát :Thường hiện thân , tay phải cầm kiềm trí huệ , tay trái cầm kinh Bát Nhã .
Mahasiddha : Người tu hành đắc đạothần thông.
Simhasana : Tòa ngồi chỉ dành cho những hàng Tỳ kheo Trưởng lão Pháp sư.

Hai tập Siksàsamuccaya ( Giáo Tập Yếu ) ;
Và Bodhicaryàvatàra ( Bồ TátHạnh ) :

Chắc chắn tác giả là ngài Sàntideva , riêng tập Sùtrasamuccaya đa số các học giả đều công nhận tác giả là ngài Long Thọ ( Nàgàrjuna ) . 

Tiểu sử này tôi rút từ 2 tài liệu History of Buddhism in India của Taranatha và La Légende de Sàntideva trong Indo-Iranian Journal Volume XVI . Trong tạng Luận của Tây tạng có nói đến bộ Mdo.sde.sna.tshogs.kyi.mdo.btus.pa ; được học giả Marcelle Lalou chuyển sang lại Sanskrit là Visvasùtrasamuccaya . Tập này ngày nay đã bị mất tích

Theo học giả J.W.De Jong có lẽ 2 tập này tương tự nhau nên các sử gia Tây tạngluận gia Ấn độ cùng cho tác giả của Kinh Tập Yếu ( Sùtrasamuccaya) là ngài Sàntideva . Kinh Tập Yếu đã được Hòa thượng Linh Sơn thượng Huyền hạ Vi dịch từ Hán văn ra Việt văn năm 1985 với tựa đề là Yếu Nghĩa Phật Pháp .

Lời Giới Thiệu

Bộ luận Nhập Bồ Tát Hạnh là một kiệt tác của Phật giáo Ấn Ðộ . Không những trên phương diện tư tưởng , tu chứng mà còn cả trên phương diện văn học . Nó đã đem lại niềm vui cho biết bao nhiêu thế hệ

Tương truyền ở Ấn Ðộ đã có hơn một trăm bộ chú thích cho bộ luận này và ở Tây Tạng nó đã trở thành một trong sáu bộ luận “ gối đầu ” cho những kẻ học Phật . Bộ luận này được truyền đến Trung Hoa vào đời Triệu Tống . 

Lúc ấy Phật giáo vừa trải qua cơn pháp nạn khốc liệt thời Ðường Vũ Tông . Kế tiếp lại bị nhiều nạn đao binh phá hoại trong thời Ngũ đại . Cho nên sinh khí của Phật giáo lúc bấy giờ gần như bị kiệt quệ , ngoài Thiền Tông và Tịnh Ðộ Tông , các tông phái khác gần như tuyệt tích . 

Hơn nữa , vào thời đó . Các vị tăng sĩ ít “ hứng thú ” trong việc khảo cứu các tác phẩm mới được phiên dịch từ Ấn Ðộ . Vì lý do này , hầu hết các dịch phẩm mới dưới thời Triệu Tống ít được các nhà học Phật để ý đến và “ Nạn nhân chính ” trong đó là bộ Nhập Bồ Tát Hạnh

Điều tệ hại nữa là bản dịch của ngài Thiên Tức Tai , một cao tăng Ấn Ðộ . Không những thiếu sót nhiều chỗ , văn chương lại tối tăm khó hiểu . Thành thử số phận nó lại càng hẩm hiu . Kết quả là bộ luận này đã bị bỏ quên trong bộ Ðại Tạng Kinh của Trung Hoa hơn một ngàn năm mà không ai biết đến . 

Trái lại , ở Tây Tạng lưu truyền rất thịnh hànhgần đây Âu Tây phong trào nghiên cứu bộ luận này càng lúc càng trở nên rầm rộ . Theo như sự hiểu biết của tôi , đã có hơn mười bộ : phiên dịch , chú giải , luận án nghiên cứu bằng tiếng Anh đã được xuất bản . Chưa kể đến các ngôn ngữ khác như Nhật, Ðức , Pháp , Ý . . .

Ðiều này chứng tỏ nó phải có một giá trị nào đó mới có thể thu hút được sự chú ý của nhiều người như thế . Sự đặc sắc của bộ luận này có thể được nhìn từ hai phương diện :

1- Phương diện tư tưởng :

Ngài Tịch Thiên trên phương diện trước tác để lại vỏn vẹn hai ( có chỗ nói ba ) . Tác phẩm chính tức bộ luận này cùng bộ Học Xứ Tập Yếu . Tuy số lượng ít oi như thế . Nhưng chỉ cần nhìn vào , chúng ta có thể quả quyết rằng không những ngài là một học giả uyên bác mà còn là một nhà tư tưởng cao siêu . 

Trong chiếc áo nhà tu , Tịch Thiên biểu hiện cho chúng ta biết ; ngài không những là bậc trí tuệ siêu phàm mà còn là một kẻ rạt rào tình cảm . Lý trí và tình cảm không bắt buộc phải bị tách đôi như các nhà triết học Tây phương quan niệm mà lý có thể hợp nhất với tình . 

lý do này , Phật giáo Ðại thừa chú trọng nhiều đến phương diện tình cảm , Vì nếu tình cảm được đặt đúng vị trí , sẽ trở thành một động lực căn nguyên của tâm Ðại Từ Bi . Muốn thành Phật , tất nhiên phải có đủ cả hai đức tính từ bitrí tuệ . Thiếu một không thể được ! .

Phát Bồ Ðề Tâm ! . Tu Bồ Tát Hạnh ! . Nghe qua có vẻ đơn giản . Nhưng chắc chắn không phải là công việc của một kẻ tầm thường . Ðây là khung trời của những kẻ mà ý chí cao vượt đến những dãy ngân hà xa tít .

Phương tiện của những kẻ mà tâm nguyện kiên cường vững chãi hơn trăm ngàn thành lũy . Của những kẻ mà trăm ngàn lưỡi đao bén nhọn không làm nao núng và trăm ngàn sự vui cõi trời không làm họ xao động ! . 

Ai là kẻ có thể nắm giữ được gia nghiệp của Ðức Như Lai ? . Ai là kẻ có thể làm xán lạn cho gia tộc Phật ? . Những kẻ chí nguyện vững chắc hơn trăm ngàn kim cương . Chỉ có thể là những kẻ vì chúng sinh chảy dòng lệ nhạt nhòa như người mẹ hiền nức nỡ trước nỗi khổ của đứa con mình . Từ những dòng tư tưởng trong bộ luận này chúng ta có thể thấy một cách mông lung tầm kích vĩ đại của ngài Tịch Thiên ! .

2- Phương diện thực tiễn tu hành :

Ðiều trọng đại nhất cho hành giả bắt đầu dấn bước trên con đường Bồ Tátphát tâm Bồ Ðề . Phát tâm Bồ Ðề là sự chuyển mình của hành giả từ thân phận tầm thường của một phàm phu vào đến tầm kích của vũ trụ

Ðây là sự biểu hiện của một nhân cách vĩ đại không có một hệ thống triết học hay tôn giáo nào có thể tự hào . Khi hành giả lột bỏ được bộ quần áo tâm linh cũ nát để thay vào đó bằng bộ quần áo lộng lẫy - Bồ Ðề Tâm . Trên phương diện người ” , hành giả trở nên cao quí hơn tất cả muôn loài trong thế giới :

Kẻ tù ngục sinh tử ,
Nếu phát Bồ Ðề tâm .
Tức khắc tên Phật tử ,
Trời người nên cung kính ! .

Trong kinh Hoa Nghiêm , Bồ tát Di Lặc đã mô tả cho Thiện Tài một cách tỉ mỉ về hành trạng của tâm Bồ Ðề như sau :

Bồ đề tâm như hạt giống ,
Vì từ đó sinh ra tất cả Phật pháp .
Bồ đề tâm như ruộng tốt ,
Vì nơi đây sản xuất ;
Các thứ thuần tịnh cho thế gian .

Bồ đề tâm như cõi đất ,
gìn giữ tất cả thế gian .
Bồ đề tâm như dòng nước ,
Vì rửa sạch tất cả cáu bẩn của tham dục .

Bồ đề tâm như ngọn gió ,
Vì thổi khắp thế gian ;
Không gì làm ngăn ngại .
Bồ đề tâm như ngọn lửa ,
Vì đốt cháy tất cả củi hý luận . . .

Bồ đề tâm như cha lành ,
bảo hộ hết thảy các Bồ tát .
Bồ đề tâm như mẹ hiền ,
dưỡng dục hết thảy Bồ tát .

Bồ đề tâm như nhũ mẫu ,
Vì chăm sóc hết thảy Bồ tát . . .
Bồ đề tâm như người tỉnh thức ,
đẩy lui tất cả các xấu xa .

Bồ đề tâm như lưới trời Ðế thích ,
Vì khuất phục những quỷ phiền não A tu la .
Bồ đề tâm như lửa trời Ðế thích ,
Vì đốt cháy tất cả tập quán ;
Tham dụcphiền não bất tịnh .
Bồ đề tâm như tháp thờ xá lợi ,
Vì hết thảy thế gian ;
Loài ngườiA tu la đồng kính ngưỡng .

Rồi Bồ tát Di Lặc kết luận :

“ Này thiện nam tử , Bồ đề tâm thành tựu vô lượng công đức tuyệt diệu như vậy . Tóm lại Bồ đề tâm cũng đồng như Phật pháp và các công đức của quả Phật . Tại sao thế ? . Bởi vì , chính từ Bồ đề tâm mà hạnh Bồ tát bắt đầu khởi hành và cũng chính từ đó hết thảy Như Lai trong quá khứ , hiện tạivị lai xuất hiệnthế gian

Vì vậy , này thiện nam tử . Một khi ước vọng giác ngộ tối thượng được phát khởi , vô số công đức cũng được phát sinh và cả đến ý thức ẩn áo nhất của Nhất thiết trí cũng phát sinh từ đó ” . 

( Trích từ Thiền Luận của Suzuki , bản dịch Tuệ Sỹ ) .

Thế nhưng , trong quá trình trui luyện chí nguyện Bồ tát , các công hạnh tuy đa dạng và nhiều đến vô lượng . Song mục đích không ngoài cốt yếu là buông bỏ tự ngã ” . Suzuki trong quyển “ Khai Ngộ Ðệ Nhất ” có nói : “ Lúc buông bỏ tự ngã cũng chính là lúc tha lực hiển hiện ” . 

Khi hành giả tìm đến bờ vực của tâm linh trong sự thành khẩn tha thiết đến cực độ , ngay phút giây bàng hoàng đó , hành giả có thể tạm thời quên mất tự ngã . Và chính trong giây phút huyền diệu này . Lạ lùng thay , tha lực hiển hiện như một luồng ánh sáng chan hòa ! . 

Trong giây phút tuyệt vời này không còn sự phân biệt tự và tha . Mình và đối tượng đã trở thành một ! . Và ngay chính trong sự tha thiết cùng độ đó ; lại chính là giây phút hành giả thể nghiệm được chân lý , và đây chính là thể ngộ về Tính Không ! .

Dịch bản tiếng Việt bộ Nhập Bồ Tát Hạnh là một công trình kiệt xuất của Ni sư Trí Hải . Ni sư không những dịch thành văn xuôi mà lại còn dịch thành văn vần . Cả hai đều có thể gọi là những dịch phẩm quan yếu cho Phật giáo Việt Nam . Ðây là một sự đóng góp lớn lao , không những cho nền văn hóa Phật giáo Việt Nam nói riêng mà còn cho cả nền văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung .

Tôi may mắn được nghiên cứu qua tác phẩm vĩ đại của ngài Tịch Thiên và đã phiên dịch bộ luận này theo thể tài kệ tụng bốn câu năm chữ . Đồng thời cũng viết xong một quyển chú giải . Song nhận thấy chúng chỉ là những viên sỏi vụn không có chút giá trị nào . Nay có nhân duyên gặp được “ trân châu bảo ngọc ” nên không ngần ngại , vội vàng vứt đi những viên sỏi vụn “ sần sùi ” . 

Chắp tay kính cẩn dâng hai dịch phẩm quý giá đến quý vị độc giả . Đồng thời phát tâm “ hợp đính ” để tiện cho người đọc . Nếu không thể lãnh hội phần văn vần , có thể tham khảo thêm phần văn xuôi để lãnh hội thêm ý chỉ uyên thâm của bộ luận .

Hai phần văn xuôivăn vần có được là nhờ sư huynh tôi , thầy Thích Pháp Quang trụ trì chùa Tịnh Luật ở Texas , liên lạc với Ni sư Trí HảiViệt Nam gửi qua cho thầy bằng “ email ” . 

Khi nhận được hai phần từ thầy Pháp Quang , tôi cảm thấy vui mừng như “ kẻ khát được cam lộ , kẻ nghèo gặp ngọc quý ” . Bèn không quản tài học thô thiển viết lên vài hàng giới thiệu hầu kết duyên với tất cả những hành giả “ Đã , đang , hoặc sẽ phát tâm học tập Bồ tát hạnh ” .

Cũng nhân đây “ phát lộ ” với tất cả đại chúng rằng mình được “ diễm phúc ” tắm gội trong hào quang của Tam Bảo cùng ánh sáng chói ngời của con người vĩ đại Tịch Thiên ! .

Nguyện đem công đức truyền bá “ áo nghĩa ” Ðại thừa hồi hướng đến thân mẫu , Sư cô Thích Nữ Chúc Phước , đàn na tín chủ . Cùng tất cả chúng sinh

Nguyện tất cả những ai thấy nghe tin hoặc không tin , hiểu hay không hiểu , khen , chê , kính hoặc hủy . Đời đời đều trở thành Pháp quyến của nhau , dìu dắt nâng đở cho đến ngày tất cả đều thành Chánh Giác

Xin tất cả hãy cùng nhau phát lên lời thệ nguyện vĩ đại của Tịch Thiên :

Cho đến tận hư không ,
Nơi nào có chúng sinh .
Nguyện sẽ đến nơi đó ,
Diệt khổ đau cho họ ! .

Mùa Phật Ðản 2547, tháng 5-2003
Tường Quang Tự,

Tỳ kheo Thích Pháp Chánh cẩn thức


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19878)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28997)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20713)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19463)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30550)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36470)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33265)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35603)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21007)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21943)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25281)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25819)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31295)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18583)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25164)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23799)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28964)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20896)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31466)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25577)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29744)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22542)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25743)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23307)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25762)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23764)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40629)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23365)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22486)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22107)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23523)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16984)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23300)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24346)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41136)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19020)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20513)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27748)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38149)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34096)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36819)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24032)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29229)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60193)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27638)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68778)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24554)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24519)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22742)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26390)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26571)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20842)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20087)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27587)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46483)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53605)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23634)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21126)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25620)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29298)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant