Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dẫn Nhập

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 13721)
Dẫn Nhập

Dẫn Nhập

Thích Như Thạch
(Trần Ngọc Giao)

Nhập Bồ Tát Hạnh 
Đạo Luận

Nói một cách tổng quát , nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa : Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh . Toàn bộ luận phân làm mười chương . 

Chương thứ nhất :
Những lợi lạc của tâm Bồ Ðề ,
Khuyến khích chúng sinh phát tâm Bồ Ðề chân thực .
Chương thứ hai :
Sám hối tội nghiệp ,
Kế đó tu tùy hỉ
Khuyến thỉnhhồi hướng phúc đức rộng lớn .
Chương thứ ba :

Gìn giữ tâm Bồ Ðề ,
Phát khởi tâm Bồ Ðề nguyện ;
Cùng thọ giới Bồ Tát .
Chương thứ tư :

Không buông lung ,
Tu tập hạnh không buông lung ;
Hầu tránh vi phạm Bồ Tát học xứ .
Chương thứ năm :

Giữ gìn chánh tri ,
Cho biết làm thế nào để giữ gìn Bồ Tát học xứ .
Chương thứ sáu :

Nhẫn nhục ,
Dạy tu nhẫn nhục trừ khử tâm chướng ngại
trong sự tu tập Bồ Tát hạnh .
Chương thứ bảy :
Tinh tấn ,
Vì muốn được tăng trưởng Bồ Tát hạnh ,
Phải tinh cần tu tập .
Chương thứ tám :

Thiền định ,
Trước tiên tu tĩnh lự để đối trị hôn trầm , tán loạn
( Đặc biệt quở trách sự tham dục ) .
Sau đó tiến thêm một bước tu tập pháp môn tự tha hoán
( Trao đổi mình và người ) ,
Để tăng trưởng tâm Bồ Ðề thế tục .
Chương thứ chín :

Trí Huệ ,
Vì muốn thông đạt thực tướng của chư pháp ,
Dẫn đến tâm Bồ Ðề thắng nghĩa .
Hầu có thể đoạn trừ phiền não ,
Nên phải có trí huệ .
Chương thứ mười :

Hồi hướng ,
Đem tất cả công đức của nghiệp lành ;
Hồi hướng đến tất cả chúng sinh .
Phần trên là đại ý nội dung của bộ luận này .
Nếu qui nạp lại , có thể chia làm bốn phần :

Phần 1 :

Ba chương đầu là tông chỉ chủ yếu , đối với chúng sinh chưa phát tâm . Dẫn phát thế tục tâm nguyện Bồ Ðề và tâm hạnh Bồ Ðề .

Phần 2 :

Ba chương Không buông lung , Giữ gìn chánh tri , Nhẫn nhục . Chỉ dẫn , khuyến khích thế nào giữ gìn tâm Bồ Ðề . cùng nghiêm trì giới luật Bồ Tát . Không để ngoại duyên làm ô nhiễm , thoái thất .

Phần 3 : 

Ba chương Tinh tiến , Thiền định , Trí tuệ . Một mặt giúp hành giả tăng tiến tâm Bồ Ðề thế tục , một mặt đem hành giả đến sự phát sinh tâm Bồ Ðề thắng nghĩa , thuần tịnh không nhiễm . Cùng y vào đây thực hành xuất thế gian Ba la mật , tăng trưởng phúc tuệ tư lương , tăng tiến cho đến lúc thành Phật .

Phần 4 :

Cuối cùng là chương Hồi hướng . Hồi hướng phát nguyện , đây cũng là một phương cách tăng trưởng vô tận phúc đức .

Nếu từ khía cạnh khác , theo quan điểm chính ngài Tịch Thiên trong quyển Học Xứ Tập Yếu, có thể giải thích như sau :

1
Tông chỉ chủ yếu ba chương đầu : Muốn dẫn phát một loại ý nguyện tối thù thắng . Nguyện đem thân thể , tài sản , thiện căn của mình . Hoàn toàn bố thí cho tất cả chúng sinh . Hơn nữa , bắt đầu chân thành tu tập hạnh Bồ Tát .
2
Ba chương Không buông lung , v . v . . . Chủ yếu muốn nói đến quá trình tu học . Làm thế nào để giữ gìn thân thể , tài sản , thiện căn để thuận tiện cho việc lợi ích chúng sinh .
3
Bốn chương cuối : Muốn chỉ đạo hành giả , sau khi giữ gìn thân thể, tài sản v . v . . . Làm thế nào tiến thêm một bước trong công việc tịnh hóa cùng tăng trưởng .

Nói một cách tổng quát, nội dung chủ yếu của bộ Nhập Bồ Tát Hạnh dùng để chỉ dẫn hành giả trong quá trình tu học hạnh Bồ Tát . Làm sao tu tập lục độ vạn hạnh, để thuận tiện dùng những phương thức bố thí , giữ gìn , tịnh hóa cùng tăng trưởng thân thể , tài sản , thiện căn v . V . . . Trong việc lợi tế quần sinh

Tịch Thiên trong quyển Học Xứ Tập Yếu . Chương Học tập bố thí nói : “ Ðem thân thể , tài vật cùng thiện căn hoàn toàn bố thí cho tất cả hữu tình . Hơn nữa , phải giữ gìn , tịnh hoá cùng tăng trưởng chúng. Ðây là yếu lĩnh của Bồ Tát học xứ ” . 

Tại cuối chương , Tịch Thiên dẫn kinh Bảo Vân để kết luận như sau : “ Thí xả là Bồ Ðề của Bồ Tát ” . Nhập Bồ Tát Hạnh , chương thứ ba, bài kệ 10 - 11 cũng nói : 

“ Vì muốn thành tựu sự lợi ích của tất cả hữu tình .
Con bố thí thân mệnh mình không chút luyến tiếc .
Bố thí tất cả tài sản cùng thiện căn phúc đức .
Nếu có thể từ đáy lòng thí xả tất cả thân thể , tài sản , thiện căn .
Con sẽ vượt qua tất cả khổ, thành tựu Niết Bàn ” .

Do đây , có thể thấy được Tịch Thiên rất chú trọng đến sự tu tập bố thí . Từ cái nhìn của ngài , chữ Xả là tổng trì trong sự hành trì của cả Ðại thừa lẫn Tiểu thừa . Hành giả Tiểu thừa , do vì xả ly tất cả sự tham luyến đối với tam giới mà chứng được sự diệu lạc của Niết Bàn

Hành giả Ðại thừa , tiến thêm một bước. Xả bỏ luôn sự diệu lạc của Niết Bàn , đạt tới cái gọi là : “ Trí không trụ ba cõi . Bi không trụ Niết Bàn ” . Chính là cảnh giới vô trụ của vô thượng Bồ Ðề .

Chính Tịch Thiên nghĩ rằng : 

Tu tập bố thítrọng yếu nhất trong quá trình tu học Bồ Tát hạnh . Vì thế ngài không lập riêng chương Bố thí , mà đem quan niệm “ Thí xả tất cả ” vào trong tất cả các chương . Nhân đây , trong mỗi chương của quyển Nhập Bồ Tát Hạnh . Chúng ta có thể thấy rõ ý nghĩa của sự “ Thí xả tất cả ” này .

Thuật Ngữ 

Tara : Là một hóa thân nữ của Quán Thế Âm . Trong Phật giáo Ấn độvà Tây tạng nói đến rất nhiều . Quán Thế Âm, khi nhìn thấy chúng sinh đau khổ , ngài nhỏ lệ từ bi và giọt lệ này rơi xuống hóa thành Tara .
Văn Thù Bồ tát :Thường hiện thân , tay phải cầm kiềm trí huệ , tay trái cầm kinh Bát Nhã .
Mahasiddha : Người tu hành đắc đạothần thông.
Simhasana : Tòa ngồi chỉ dành cho những hàng Tỳ kheo Trưởng lão Pháp sư.

Hai tập Siksàsamuccaya ( Giáo Tập Yếu ) ;
Và Bodhicaryàvatàra ( Bồ TátHạnh ) :

Chắc chắn tác giả là ngài Sàntideva , riêng tập Sùtrasamuccaya đa số các học giả đều công nhận tác giả là ngài Long Thọ ( Nàgàrjuna ) . 

Tiểu sử này tôi rút từ 2 tài liệu History of Buddhism in India của Taranatha và La Légende de Sàntideva trong Indo-Iranian Journal Volume XVI . Trong tạng Luận của Tây tạng có nói đến bộ Mdo.sde.sna.tshogs.kyi.mdo.btus.pa ; được học giả Marcelle Lalou chuyển sang lại Sanskrit là Visvasùtrasamuccaya . Tập này ngày nay đã bị mất tích

Theo học giả J.W.De Jong có lẽ 2 tập này tương tự nhau nên các sử gia Tây tạngluận gia Ấn độ cùng cho tác giả của Kinh Tập Yếu ( Sùtrasamuccaya) là ngài Sàntideva . Kinh Tập Yếu đã được Hòa thượng Linh Sơn thượng Huyền hạ Vi dịch từ Hán văn ra Việt văn năm 1985 với tựa đề là Yếu Nghĩa Phật Pháp .

Lời Giới Thiệu

Bộ luận Nhập Bồ Tát Hạnh là một kiệt tác của Phật giáo Ấn Ðộ . Không những trên phương diện tư tưởng , tu chứng mà còn cả trên phương diện văn học . Nó đã đem lại niềm vui cho biết bao nhiêu thế hệ

Tương truyền ở Ấn Ðộ đã có hơn một trăm bộ chú thích cho bộ luận này và ở Tây Tạng nó đã trở thành một trong sáu bộ luận “ gối đầu ” cho những kẻ học Phật . Bộ luận này được truyền đến Trung Hoa vào đời Triệu Tống . 

Lúc ấy Phật giáo vừa trải qua cơn pháp nạn khốc liệt thời Ðường Vũ Tông . Kế tiếp lại bị nhiều nạn đao binh phá hoại trong thời Ngũ đại . Cho nên sinh khí của Phật giáo lúc bấy giờ gần như bị kiệt quệ , ngoài Thiền Tông và Tịnh Ðộ Tông , các tông phái khác gần như tuyệt tích . 

Hơn nữa , vào thời đó . Các vị tăng sĩ ít “ hứng thú ” trong việc khảo cứu các tác phẩm mới được phiên dịch từ Ấn Ðộ . Vì lý do này , hầu hết các dịch phẩm mới dưới thời Triệu Tống ít được các nhà học Phật để ý đến và “ Nạn nhân chính ” trong đó là bộ Nhập Bồ Tát Hạnh

Điều tệ hại nữa là bản dịch của ngài Thiên Tức Tai , một cao tăng Ấn Ðộ . Không những thiếu sót nhiều chỗ , văn chương lại tối tăm khó hiểu . Thành thử số phận nó lại càng hẩm hiu . Kết quả là bộ luận này đã bị bỏ quên trong bộ Ðại Tạng Kinh của Trung Hoa hơn một ngàn năm mà không ai biết đến . 

Trái lại , ở Tây Tạng lưu truyền rất thịnh hànhgần đây Âu Tây phong trào nghiên cứu bộ luận này càng lúc càng trở nên rầm rộ . Theo như sự hiểu biết của tôi , đã có hơn mười bộ : phiên dịch , chú giải , luận án nghiên cứu bằng tiếng Anh đã được xuất bản . Chưa kể đến các ngôn ngữ khác như Nhật, Ðức , Pháp , Ý . . .

Ðiều này chứng tỏ nó phải có một giá trị nào đó mới có thể thu hút được sự chú ý của nhiều người như thế . Sự đặc sắc của bộ luận này có thể được nhìn từ hai phương diện :

1- Phương diện tư tưởng :

Ngài Tịch Thiên trên phương diện trước tác để lại vỏn vẹn hai ( có chỗ nói ba ) . Tác phẩm chính tức bộ luận này cùng bộ Học Xứ Tập Yếu . Tuy số lượng ít oi như thế . Nhưng chỉ cần nhìn vào , chúng ta có thể quả quyết rằng không những ngài là một học giả uyên bác mà còn là một nhà tư tưởng cao siêu . 

Trong chiếc áo nhà tu , Tịch Thiên biểu hiện cho chúng ta biết ; ngài không những là bậc trí tuệ siêu phàm mà còn là một kẻ rạt rào tình cảm . Lý trí và tình cảm không bắt buộc phải bị tách đôi như các nhà triết học Tây phương quan niệm mà lý có thể hợp nhất với tình . 

lý do này , Phật giáo Ðại thừa chú trọng nhiều đến phương diện tình cảm , Vì nếu tình cảm được đặt đúng vị trí , sẽ trở thành một động lực căn nguyên của tâm Ðại Từ Bi . Muốn thành Phật , tất nhiên phải có đủ cả hai đức tính từ bitrí tuệ . Thiếu một không thể được ! .

Phát Bồ Ðề Tâm ! . Tu Bồ Tát Hạnh ! . Nghe qua có vẻ đơn giản . Nhưng chắc chắn không phải là công việc của một kẻ tầm thường . Ðây là khung trời của những kẻ mà ý chí cao vượt đến những dãy ngân hà xa tít .

Phương tiện của những kẻ mà tâm nguyện kiên cường vững chãi hơn trăm ngàn thành lũy . Của những kẻ mà trăm ngàn lưỡi đao bén nhọn không làm nao núng và trăm ngàn sự vui cõi trời không làm họ xao động ! . 

Ai là kẻ có thể nắm giữ được gia nghiệp của Ðức Như Lai ? . Ai là kẻ có thể làm xán lạn cho gia tộc Phật ? . Những kẻ chí nguyện vững chắc hơn trăm ngàn kim cương . Chỉ có thể là những kẻ vì chúng sinh chảy dòng lệ nhạt nhòa như người mẹ hiền nức nỡ trước nỗi khổ của đứa con mình . Từ những dòng tư tưởng trong bộ luận này chúng ta có thể thấy một cách mông lung tầm kích vĩ đại của ngài Tịch Thiên ! .

2- Phương diện thực tiễn tu hành :

Ðiều trọng đại nhất cho hành giả bắt đầu dấn bước trên con đường Bồ Tátphát tâm Bồ Ðề . Phát tâm Bồ Ðề là sự chuyển mình của hành giả từ thân phận tầm thường của một phàm phu vào đến tầm kích của vũ trụ

Ðây là sự biểu hiện của một nhân cách vĩ đại không có một hệ thống triết học hay tôn giáo nào có thể tự hào . Khi hành giả lột bỏ được bộ quần áo tâm linh cũ nát để thay vào đó bằng bộ quần áo lộng lẫy - Bồ Ðề Tâm . Trên phương diện người ” , hành giả trở nên cao quí hơn tất cả muôn loài trong thế giới :

Kẻ tù ngục sinh tử ,
Nếu phát Bồ Ðề tâm .
Tức khắc tên Phật tử ,
Trời người nên cung kính ! .

Trong kinh Hoa Nghiêm , Bồ tát Di Lặc đã mô tả cho Thiện Tài một cách tỉ mỉ về hành trạng của tâm Bồ Ðề như sau :

Bồ đề tâm như hạt giống ,
Vì từ đó sinh ra tất cả Phật pháp .
Bồ đề tâm như ruộng tốt ,
Vì nơi đây sản xuất ;
Các thứ thuần tịnh cho thế gian .

Bồ đề tâm như cõi đất ,
gìn giữ tất cả thế gian .
Bồ đề tâm như dòng nước ,
Vì rửa sạch tất cả cáu bẩn của tham dục .

Bồ đề tâm như ngọn gió ,
Vì thổi khắp thế gian ;
Không gì làm ngăn ngại .
Bồ đề tâm như ngọn lửa ,
Vì đốt cháy tất cả củi hý luận . . .

Bồ đề tâm như cha lành ,
bảo hộ hết thảy các Bồ tát .
Bồ đề tâm như mẹ hiền ,
dưỡng dục hết thảy Bồ tát .

Bồ đề tâm như nhũ mẫu ,
Vì chăm sóc hết thảy Bồ tát . . .
Bồ đề tâm như người tỉnh thức ,
đẩy lui tất cả các xấu xa .

Bồ đề tâm như lưới trời Ðế thích ,
Vì khuất phục những quỷ phiền não A tu la .
Bồ đề tâm như lửa trời Ðế thích ,
Vì đốt cháy tất cả tập quán ;
Tham dụcphiền não bất tịnh .
Bồ đề tâm như tháp thờ xá lợi ,
Vì hết thảy thế gian ;
Loài ngườiA tu la đồng kính ngưỡng .

Rồi Bồ tát Di Lặc kết luận :

“ Này thiện nam tử , Bồ đề tâm thành tựu vô lượng công đức tuyệt diệu như vậy . Tóm lại Bồ đề tâm cũng đồng như Phật pháp và các công đức của quả Phật . Tại sao thế ? . Bởi vì , chính từ Bồ đề tâm mà hạnh Bồ tát bắt đầu khởi hành và cũng chính từ đó hết thảy Như Lai trong quá khứ , hiện tạivị lai xuất hiệnthế gian

Vì vậy , này thiện nam tử . Một khi ước vọng giác ngộ tối thượng được phát khởi , vô số công đức cũng được phát sinh và cả đến ý thức ẩn áo nhất của Nhất thiết trí cũng phát sinh từ đó ” . 

( Trích từ Thiền Luận của Suzuki , bản dịch Tuệ Sỹ ) .

Thế nhưng , trong quá trình trui luyện chí nguyện Bồ tát , các công hạnh tuy đa dạng và nhiều đến vô lượng . Song mục đích không ngoài cốt yếu là buông bỏ tự ngã ” . Suzuki trong quyển “ Khai Ngộ Ðệ Nhất ” có nói : “ Lúc buông bỏ tự ngã cũng chính là lúc tha lực hiển hiện ” . 

Khi hành giả tìm đến bờ vực của tâm linh trong sự thành khẩn tha thiết đến cực độ , ngay phút giây bàng hoàng đó , hành giả có thể tạm thời quên mất tự ngã . Và chính trong giây phút huyền diệu này . Lạ lùng thay , tha lực hiển hiện như một luồng ánh sáng chan hòa ! . 

Trong giây phút tuyệt vời này không còn sự phân biệt tự và tha . Mình và đối tượng đã trở thành một ! . Và ngay chính trong sự tha thiết cùng độ đó ; lại chính là giây phút hành giả thể nghiệm được chân lý , và đây chính là thể ngộ về Tính Không ! .

Dịch bản tiếng Việt bộ Nhập Bồ Tát Hạnh là một công trình kiệt xuất của Ni sư Trí Hải . Ni sư không những dịch thành văn xuôi mà lại còn dịch thành văn vần . Cả hai đều có thể gọi là những dịch phẩm quan yếu cho Phật giáo Việt Nam . Ðây là một sự đóng góp lớn lao , không những cho nền văn hóa Phật giáo Việt Nam nói riêng mà còn cho cả nền văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung .

Tôi may mắn được nghiên cứu qua tác phẩm vĩ đại của ngài Tịch Thiên và đã phiên dịch bộ luận này theo thể tài kệ tụng bốn câu năm chữ . Đồng thời cũng viết xong một quyển chú giải . Song nhận thấy chúng chỉ là những viên sỏi vụn không có chút giá trị nào . Nay có nhân duyên gặp được “ trân châu bảo ngọc ” nên không ngần ngại , vội vàng vứt đi những viên sỏi vụn “ sần sùi ” . 

Chắp tay kính cẩn dâng hai dịch phẩm quý giá đến quý vị độc giả . Đồng thời phát tâm “ hợp đính ” để tiện cho người đọc . Nếu không thể lãnh hội phần văn vần , có thể tham khảo thêm phần văn xuôi để lãnh hội thêm ý chỉ uyên thâm của bộ luận .

Hai phần văn xuôivăn vần có được là nhờ sư huynh tôi , thầy Thích Pháp Quang trụ trì chùa Tịnh Luật ở Texas , liên lạc với Ni sư Trí HảiViệt Nam gửi qua cho thầy bằng “ email ” . 

Khi nhận được hai phần từ thầy Pháp Quang , tôi cảm thấy vui mừng như “ kẻ khát được cam lộ , kẻ nghèo gặp ngọc quý ” . Bèn không quản tài học thô thiển viết lên vài hàng giới thiệu hầu kết duyên với tất cả những hành giả “ Đã , đang , hoặc sẽ phát tâm học tập Bồ tát hạnh ” .

Cũng nhân đây “ phát lộ ” với tất cả đại chúng rằng mình được “ diễm phúc ” tắm gội trong hào quang của Tam Bảo cùng ánh sáng chói ngời của con người vĩ đại Tịch Thiên ! .

Nguyện đem công đức truyền bá “ áo nghĩa ” Ðại thừa hồi hướng đến thân mẫu , Sư cô Thích Nữ Chúc Phước , đàn na tín chủ . Cùng tất cả chúng sinh

Nguyện tất cả những ai thấy nghe tin hoặc không tin , hiểu hay không hiểu , khen , chê , kính hoặc hủy . Đời đời đều trở thành Pháp quyến của nhau , dìu dắt nâng đở cho đến ngày tất cả đều thành Chánh Giác

Xin tất cả hãy cùng nhau phát lên lời thệ nguyện vĩ đại của Tịch Thiên :

Cho đến tận hư không ,
Nơi nào có chúng sinh .
Nguyện sẽ đến nơi đó ,
Diệt khổ đau cho họ ! .

Mùa Phật Ðản 2547, tháng 5-2003
Tường Quang Tự,

Tỳ kheo Thích Pháp Chánh cẩn thức


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19738)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23991)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41251)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19722)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24032)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21756)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23331)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27522)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26587)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29355)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33234)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20216)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25803)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20946)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31357)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38624)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21465)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44301)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29864)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42261)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22165)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45808)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32146)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23989)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24426)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29315)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33945)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27711)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32185)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21103)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28879)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28119)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22091)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21459)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19541)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19493)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19850)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19284)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29233)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20646)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28328)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23678)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33232)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31880)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21417)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39672)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21588)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19407)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26434)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24857)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21775)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22414)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29169)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20490)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23561)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21264)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35379)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24579)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant