Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương I: Những Lợi Lạc Của Bồ Đề Tâm

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 13385)
Chương I: Những Lợi Lạc Của Bồ Đề Tâm

Chương I
Những Lợi Lạc 
Của Bồ Đề Tâm

1 - 4 .

Kính lễ Phật - Pháp thân thường tại ,
Kính lễ hiền thánh trải mười phương .
Con nay ghi lại lời vàng ,
Luật nghi Phật ch
ế cho hàng xuất gia .
Vụng về dệt mấy vần thơ ,
Chỉ mong mình khỏi phai mờ tín tâm .
Phúc thay ta được thân nhân loại ,
Hãy dùng thân tự lợi , lợi tha .
Dịp này nếu để luống qua ,
Thì khi chết đến biết là về đâu .

5. 

Như làn chớp loáng qua mau ,
Chiếu soi vạn vật giữa mầu đêm đen .
Thế gian nhờ đấng Chí tôn ,
Pháp lành hi hữu vô ngần hiện ra .

6. 

Căn lành ở trong ta thường yếu ,
Ác nghiệp thì công hiệu xiết bao .
Bồ đề tâm chẳng nương theo ,
Không sao thắng nổi quá nhiều chướng duyên .

7. 

Ba đời chư Phật chứng minh ,
Bồ đề tâm ấy thực lành lợi thay .
Hữu tình vô lượng nhờ đây ,
Mà mau được hạnh phúc tày non cao .

8. 

Ai muốn dứt khổ sầu cõi tạm ,
Muốn được nhiều vô hạn niềm vui .
Muốn mong cứu giúp mọi người ,
Đừng bao giờ để buông lơi tâm này .

9. 

Chúng sinh trong cõi luân hồi ,
Bồ đề tâm ấy tạm thời khởi lên ,
Tức thì tất cả nhân thiên ,
Gọi là con Phật rất nên nể vì .

10. 

Như hóa chất để xi vàng khối ,
Bồ đề tâm chuyển đổi thân dơ .
Sinh từ máu huyết mẹ cha ,
Ra thân Phật thật một tòa kim cương .

11. 

Đạo sư trí tuệ vô ngần ,
Xem tôn quý nhất là tâm bồ đề .
Ai người muốn thoát sông mê ,
Hãy nên giữ vững bồ đề tâm kia .

12. 

Hạnh lành khác chỉ như cây chuối ,
Cho quả xong tàn lụi héo hon .
Cây Bồ đề vẫn xanh luôn ,
Không ngưng kết trái đơm bông cõi đời .

13. 

Như người phạm tội tơi bời ,
Nhờ nương dũng sĩ tức thời được an .
Kẻ cầu thoát khỏi nguy nan ,
Sao không sớm liệu nương tâm bồ đề .

14. 

Như ngọn lửa ở thời kiếp hoại ,
Trong phút giây thiêu cháy tội khiên .
Công đức tâm ấy vô biên ,
Được ngài Di lặc dạy khuyên Thiện Tài .

15. 

Tóm thâu hai loại sau đây ,
Cũng từ một họ Bồ đề tâm ta .
Một là Tâm nguyện tỉnh ra ,
Hai là Tâm hạnh gắng mà làm theo .

16. 

Bậc hiền trí hiểu sâu hai thứ ,
Chỗ khác nhau giữa muốn và làm .
Như du hành mới phát tâm ,
Khác xa với việc dấn thân trên đường .

17.

Trong vòng sinh tử nhiễu nhương ,
Nguyện Bồ đề đủ đem đường yên vui .
Nhưng kho công đức bời bời ,
Bồ đề hạnh nơi người phát tâm .

18. 

Và với kẻ trong tâm nắm vững ,
Hạnh bồ đề thề chẳng thối lui .
Mong sao cứu vớt muôn loài ,
Chúng sinh thoát khỏi cảnh đời trầm luân .

19.

Kể từ khi phát đại tâm ,
Dù khi đang ngủ hoặc không nghĩ gì .
Thiện căn tiếp tục tràn trề ,
Như hư không nọ chẳng hề sút sa .

20.

Đức Phật vì xót xa kẻ dại ,
Ham dừng chân ở tại Tiểu thừa .
Bản kinh Diệu Tý hỏi thưa ,
Nói nhiều công đức kẻ vừa phát tâm .

21. 

Dù khi thấy một chúng sinh ,
Gặp cơn đau nhức không đành làm ngơ .
Tâm nhiêu ích ấy còn dư ,
Phúc lành cho kẻ tâm từ bủa lan .

22. 

Huống hồ kẻ phát tâm quảng đại ,
Mong xua tan vạn loại khổ sầu 
Mong đem hạnh phúc thanh cao ,
Cho vô lượng chúng sinh nào trầm luân .

23. 

Có ai , cha mẹ , chư thiên ,
Phạm thiên cõi dục ai nguyền phát tâm .
Lớn lao quảng đại nào bằng ,
Bồ đề tâm nguyện của hàng sơ cơ ? .

24. 

Người ta chẳng bao giờ mơ tưởng ,
Tâm bồ đề dù hướng bản thân .
Huống là hướng đến tha nhân ,
Mà mong phát nổi chân tâm thượng thừa .

 25. 

Chỉ vì một bản thân ta ,
Còn chưa phát được huống là vì ai .
Phát tâm lợi ích muôn loài ,
Là tâm tôn quý muôn đời hiếm khan .

26. 

Như ngọc báu trần gian không khác ,
Bồ đề tâm an lạc cho đời .
Thuốc mầu đau khổ nhẹ vơi ,
Cỗi nguồn hạnh phúc không lời nào đo .

27. 

Nghĩ lành cho chúng sinh thôi ,
Còn hơn lễ lạy Như Lai pháp tòa .
Nói gì công đức bao la ,
Mang cho tất cả muôn nhà niềm vui .

28. 

Ai cũng muốn xa rời khổ não ,
Tại sao mà khổ não càng tăng .
Muốn mình hạnh phúc an khương ,
Ngu si tự phá phước dường cừu nhân .

29. 

Với người không chút bình an ,
Trong tâm chất chứa miên man khổ sầu .
Bồ đề tâm ngọc báu mầu ,
Xua tan thống khổ rạt rào vui dâng . 

30. 

Lại xóa tan mê lầm bao nỗi ,
Hạnh lành nào sánh với tâm đây .
Bạn hiền nhân thế nào tày ,
Bồ đề công đức lành thay ai bì .

31. 

Kẻ nào đền đáp ân nghì ,
Còn nên khen ngợi chỉ vì nhớ ơn .
Huống gì Bồ tát gia ân ,
Với niềm vui suớng chẳng cần chờ xin .

32. 

Thế gian kính hiền nhân những kẻ ,
Một đôi lần san sẻ thức ăn .
Cho người thiếu thốn cơ bần ,
Thỏa cơn bỉ cực chút phần nào thôi .

33.

 Huống chi Bồ tát suốt đời ,
Đem nguồn phúc lạc Như Lai trọn lành .
Trút cho vô lượng quần sanh ,
Nhờ đây thỏa được muôn nghìn ước ao .

34. 

Phật từng dạy kẻ nào nghĩ quấy ,
Về một người như vậy ân nhân .
Sẽ sa địa ngục muôn lần ,
Bao nhiêu nghĩ bấy nhiêu phân đọa đày .

35. 

Một lời ca tụng lành thay ,
Gặt nên quả phúc gấp hai ba lần .
Hiền nhân dù gặp khó khăn ,
Không sinh lầm lỗi còn tăng hạnh lành .

36. 

Ai người phát đại tâm trân quý ,
Cho tôi xin kính lễ chân thành .
Cho vui đến kẻ hại mình ,
Tôi xin quy kỉnh suối lành Từ Bi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12510)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10400)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12359)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11664)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28831)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12065)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13020)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11462)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12387)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17456)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53089)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35499)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21413)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10686)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19262)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12429)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26058)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13329)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14395)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16099)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13738)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16856)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17598)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13142)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12545)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11619)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11632)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14518)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20495)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19001)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19595)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18673)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12201)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12332)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13876)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15047)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15049)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14003)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15532)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11410)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17206)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14988)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20226)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14631)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13863)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11720)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15076)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13007)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22902)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14571)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11676)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13179)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16894)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18355)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11511)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15861)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12896)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18930)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18439)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant