Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 9: Trí Tuệ

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 11882)
Chương 9: Trí Tuệ

Chương Chín
Trí Tuệ

( Suốt chương này, những câu " trong ngoặc kép ” là luận điệu những học thuyết trong và ngoài Phật giáo phản bác hoặc chất vấn Trung quán . Tiếp theotrả lời của luận chủ theo lập trường Trung quán . Xem phần dịch văn xuôi để rõ chi tiết ) .

1. 

Bao điều Phật dạy kể trên .
Cốt làm trí tuệ phát sinh nơi lòng .

Muốn ra khỏi biển trầm luân ,
Cần sinh tuệ giác Tính không sáng ngời .

2. 

Lẽ phải đời gọi là tục đế ,
Thắng nghĩachân lý siêu phàm .
Không do phân biệt nơi tâm ,
Còn phân biệt vẫn trong vòng trầm luân .

3. 

Thế gian những kẻ ngu phàm ,
quan điểm khác với hàng thiền gia .
Những gì tục đế nói ra , 
Bị hành giả phái Du già bác ngay .

4a.

Thiền gia cũng khác nhau tuệ lực ,
Càng lên cao thấy bực dưới sai .
Như màn ảo thuật hiển bày 
Thế tình như huyễn với người tu tâm .

4b. 

Nếu ai hỏi vị ấy rằng ,
“ Đã như huyễn hóa thì cần tu chi ” . 
Muốn thành Phật quả chân như ,
Nên dùng huyễn pháp đi tu ấy mà .

5. 

Việc gì cũng xem là có thật ,
Người thế gian phân biệt linh tinh .
Thiền gia xem tợ huyễn hình ,
Đây là đầu mối luận tranh hai nhà .

6. 

Cảnh gì hiện trước mắt ta ,
Làm nên tục đế, gọi là giả danh .
Chỉ do điên đảo mà thành ,
Như dơ bảo sạch không nên tin vào .

7a. 

Muốn dẫn đạo cho người thế tục ,
Phật dạy rằng các pháp vô thường .
Thật thì các pháp vốn không ,
Có đâu để diệt trong từng sát na .

7b. 

Vậy nên hiểu vô thường tục đế ,
Không phải là thắng nghĩa sâu xa .
“ Nói tồn tại chỉ sát na ,
Phải chăng cũng trái tục gia lối nhìn ” .

8a. 

Không lầm cái thấy nhà thiền ,
Cho rằng các pháp chỉ bền sát na .
Chấp thường thế tục vốn ưa ,
Lối nhìn thiền giả tạm là thật chân .

8b. 

Cũng như cái thấy thân bất tịnh ,
Với người đời nhất định trái tai .
Nhưng mà nó vẫn không sai ,
Vậy nên chưa chắc ngược đời phi chân .

9a. 

“ Nếu vạn pháp đã là không thực ,
Thì cúng dường công đức nào sinh ” . 
Phật như huyễn đức huyễn sanh ,
Cũng như Phật thật đức thành thật chân .

9b.

 “ Nếu là như huyễn chúng sinh ,
Vậy sau khi chết tái sanh thế nào ” .

10a.

 Huyễn duyên còn tụ bao lâu ,
Huyễn hình vẫn cứ thi nhau diễn tuồng .

10b. 

Như ảo thuật hữu tình không khác ,
Đều khởi lên do các duyên sinh .
Đâu vì yếu tố thời gian ,
Lâu dài tương đốithành thật chân ? .

11. 

Khi người huyễn sát sinh, bố thí ,
vô tâm chẳng tội phước chi .
Chúng sinh với huyễn tâm kia ,
Sanh như huyễn tội như là huyễn công .

12. 

Chú thuật không thể sinh tâm huyễn ,
Tâm không từ huyễn thuật sinh ra .
Nhân duyên đủ thứ hợp hòa ,
Phát sinh các dạng vật và chúng sinh .

13. 

Không bao giờ có một nhân ,
Sinh ra tất cả mọi thành quả kia .
“ Nếu cho vạn pháp chân như ,
Chỉ trên tục đế bày ra luân hồi ” .

14. 

“ Phật còn có thể luân hồi ,
Thì Bồ tát hạnh còn ai tu hành ” . 
Huyễn duyên nếu vẫn vận hành ,
Huyễn hình không diệt hữu tình theo đây .

15. 

Phật đã chấm dứt duyên sinh tử ,
Nên dù trên tục đế không sinh .
“ Nếu cho vọng thức không thành ,
Lấy gì duyên với cảnh tình huyễn hư ” .

16. 

Theo ông ngoại cảnh huyễn hư ,
Thì đâu còn có cảnh gì để duyên .
“ Cảnh kia do thức mà nên ,
Thức này ngó lại cảnh mình biến ra ” .

17. 

Nếu huyễn cảnh chính là tâm thức ,
Thì lấy gì thấy được cái chi .
Phật Như lai đấng chở che ,
Dạy rằng tâm chẳng bao giờ thấy tâm .

18. 

Như gươm không tự cắt mình ,
Tâm không thể tự thấy mình được đâu .
Ví như ánh sáng đèn dầu ,
Tự mình chiếu sáng, tâm nào khác chi ” .

19a. 

Ánh sáng chẳng phải đâu tự chiếu ,
Và tối không thể hiểu tự che .
( Vì khi đèn chiếu vật kia ,
Nó không từng bị bóng gì che lên ) .

19b. 

Trả lời : Ví dụ gương xanh ,
Khi gương chiếu một vật xanh hiện hình ,
Nhưng còn ánh ngọc màu xanh ,
Thì không nương những bóng hình nọ kia ” .

20a. 

“ Cũng tương tự có hai loại thức ,
Có và không nương các vật ngoài ” .
Bác rằng : Ví dụ ấy sai ,
Xanh lưu ly ví tâm soi chiếu mình .

20b. 

lưu ly tự tính xanh ,
Không do duyên khác để thành màu kia . 

21a. 

Chính vì có thức liễu tri ,
Nên hay biết được đèn thì chiếu soi .

21b. 

Nhưng cái thức tự soi chính nó ,
Thì do đâu sáng tỏ điều này .
Vì theo trong thắng nghĩa đây ,
Tự - tha thức chẳng mảy may thực nào .

22. 

Không tâm nào để ngắm tâm ,
Nên dù tự chiếu hay không bất thành .
Khác nào nói gái vô sinh ,
Có con đẹp xấu đâu thành nghĩa chi .

23. 

Nếu khôngtự chứng phần ,
Làm sao nhớ được những tâm qua rồi ” . 
Do tương quan với cảnh ngoài ,
Mà tâm nhớ lại lần hồi xưa sau .

23b. 

Như con gấu nhức đau mình mẩy ,
Khi giật mình tỉnh dậy đầu xuân .
Suy ra biết chuột cắn nhầm ,
Trong khi an giấc suốt trong đông dài .

24. 

“ Như người biết được tha tâm ,
Cho nên cũng biết tự tâm của mình ” .
Có người mắt được bùa linh ,
Cái gì cũng thấy mắt mình thì không .

25. 

“ Nếu tự tha thức không lập được ,
Thì kiến văn tri giác đều không ” . .
Những gì thấy biết nghe trông ,
Không nên chấp thực nguyên nhân khổ sầu .

26.

 “ Huyễn duyên không ở ngoài tâm ,
Cũng không là một với dòng tâm kia ” . 
Làm sao có một pháp chi ,
Không ngoài tâm cũng lại vừa phi tâm .

27. 

Theo Duy thức cảnh ngoài phi thực ,
Trung quán cho tâm thức huyễn hư .
Luân hồi nương thật tâm tư,
Nếu không tất cả đồng là hư vô ” .

28. 

Nếu sinh tử phải nương thật pháp ,
Thì làm sao có tác dụng chi .
Tâm thành đơn độc không hai ,
Vì không có những pháp ngoài trợ duyên .

29. 

Nếu tâm lìa cảnh tự tồn ,
Chúng sinh tất cả cũng đồng Như lai. .
Vậy thì Duy thức tông kia ,
Cuối cùng đâu có ích chi lập thành .

30. 

“ Dù biết vạn phápnhư huyễn ,
Dứt làm sao tham luyến si sân .
Như phù thủy tạo mỹ nhân ,
Rồi sinh say đắm cô nàng thì sao ” .

31. 

Huyễn sư đối những gì thấy biết ,
Chưa bao giờ tận diệt tham sân .
Đã quen nhận giả làm chân ,
Nên khi thấy huyễn mỹ nhân phát thèm .

32. 

Nhờ quen tu tập Tánh không ,
Không xem các pháp thật chân chút nào .
Bản thân Không tánh có đâu ,
Cuối cùng đoạn nốt cả bầu chấp không .

33. 

Không thấy có pháp nào chắc thực ,
Thực hữu không còn được đặt ra .
Thì Không chẳng bận tâm ta ,
Như con thạch nữ đâu mà chết đi .

34. 

Khi không - có hết khởi lên ,
Trong tâm vắng lặng một miền bao la .
Không còn duyên pháp gần, xa ,
Chứng nên cảnh giới rất là tịch nhiên .

35. 

Như ngọc ma ni và cây ước ,
vô tâm thỏa được ước mong .
Sắc thân Phật hiện nhân gian ,
Do bồ tát nguyện cùng tâm hữu tình .

36. 

Như Kim sí điểu tháp linh ,
Vẫn còn năng lực chữa lành vết thương .
Nhờ linh chú bà la môn ,
Gia trì lên đấy thuở còn xa xưa .

37. 

Cũng như thế do Bồ tát hạnh ,
Vô lượng thời tạo pháp thân thiêng .
Nên dù Phật đã tịch viên ,
Vẫn còn lợi lạc vô biên hữu tình .

38. 

Cúng dường tháp Phật vô tình .
Thì sao có được chút thành quả chi ” . 
Phật dù nhập diệt hay chưa ,
Cúng dường công đức chẳng hề khác nhau .

39. 

Trên tục đế hay theo thắng nghĩa ,
Quả cúng dường một thể như như .
Phật phi thực quả huyễn hư ,
Cúng dường Phật thật quả thì thật chân .

40.

 “ Cần chi phải thấy Tính không ,
Chỉ cần kiến đế thoát vòng trầm luân ” .
Trong kinh Bát nhã dạy rằng ,
Bồ đề muốn chứng phải cần tuệ Không .

41. 

Nếu đại thừa không do Phật thuyết ,
Tiểu thừa kinh sao biết chính tông .
“ Hai ta xác nhận một lòng ” .
Khi ông chưa nhận chắc không đúng nào .

42.

 “ Lại còn hệ phái truyền trao ” ,
Đại thừa cũng vậy khác nào các ông .
Hai nhà xác nhận thành chân ,
Vệ đà ngoại điển cũng cần tin sao .

43. 

Đại thừa kinh bị nhiều tranh cãi ” , 
Kinh tiểu thừa chẳng phải an thân .
Bị bài bác bởi ngoài trong ,
Sao không nhân đấy bác luôn tiểu thừa .

44. 

Nếu kinh nào nhập Ba tàng ,
Các ông thừa nhận lời vàng Thế tôn .
Đại thừa tuyên thuyết chính tông ,
Cũng gồm giới định tuệ đồng như nhau .

45. 

Nếu vì không hiểu sâu Bát nhã ,
Phủ nhận luôn tất cả đại thừa .
Hãy vì kinh giống tiểu thừa ,
Cũng nên xem tất đồng là Phật ngôn .

46. 

“ Nếu là kinh Phật chính tông ,
Đại A la hán sao không tỏ tường ” . 
Kinh này nghĩa lý cao thâm ,
Đâu vì nan giải gạt phăng đại thừa .

47. 

Nói “ Giáo lý dành cho la hán ” , 
Nhưng khó thành nếu chẳng chứng Không .
Khi còn duyên pháp trong tâm ,
Khó mà an trú niết bàn tịnh thanh .

48.

 “ Mặc dù chẳng hiểu Tính không ,
Quán vô thường đủ thoát vòng trần ai ” .
Công năng nghiệp cũ còn hoài ,
Nên la hán vẫn chưa ngoài khổ đau .

49.

 “ A la hán không còn ái thủ ,
Quyết định không còn thọ thân sau ” .
Vô minhbất nhiễm ô ,
Vẫn còn tái diễn lắm trò khổ đau .

50. 

Do duyên cảm thọ ái sanh ,
Vị kia chỉ đoạn hiện hành ái thôi .
Tâm còn chấp thật vài nơi ,
Thọ nằm trong đó luân hồi khó ra .

51. 

Nếu tâm thức lìa xa Không quán ,
Phiền não dù tạm lắng lại sanh ,
( Như khi xuất định vô tâm ) ,
Vậy mong dứt khổ tuệ Không phải tìm .

52. 

Khi thiền quán về chân không ,
Hết tham vui sợ khổ trong luân hồi .
Từ bi trải khắp muôn nơi ,
Ở trong sinh tử độ người đang mê .

53. 

Chớ nên vì không thông nghĩa lý ,
vội vàng bác bẻ Tính không .
Hãy nên như lý tu Không ,
Dứt trừ nghi hoặc thoát vòng trầm luân .

54.

 Tính không phá được tối tăm ,
Do phiền não với mê lầm gây nên .
Muốn mau thành bậc đại hiền ,
Sao không dứt khoát tu liền Tính không .

55. 

“ Quán tính Không làm tôi sợ hãi ” , 
Chấp thật chân mới phải đáng kinh .
Vì do chấp có khổ sinh ,
Thấy Không lắng dịu vô minh não phiền .

56. 

Nếu còn có chút nào thật ngã ,
Tất nhiên còn sợ hãi nọ kia .
Nhưng vì thật chẳng có ta ,
Thì ai ở đấy để mà sợ run .

57. 

Răng tóc móng đều không phải ngã ,
Ngã cũng không là máu huyết, xương .
Không là nước mũi, bọt, đàm ,
Không là thịt nước mật vàng mật xanh .

58. 

Ngã không là phổi hay gan ,
Mồ hôi hay mỡ lại càng không ta .
Không là nội tạng trong da ,
Không là phân tiểu thối tha khó nhìn .

59. 

Thịt da cũng chẳng phải mình ,
Ấm nồng khí lực thật tình không ta .
Trong thân lỗ hổng hà sa ,
Thức tâm sáu loại đều là huyễn hư .

60. 

Nếu thức về âm thanh thường tại ,
Thì lúc nào cũng phải có nghe .
Nhưng khi không đối tượng nghe ,
Làm sao gọi được đấy là thức thanh .

61.

 Nếu không thức tâm mà cũng biết ,
Khúc cây hay phân biệt giác tri .
Nên không đối tượng sở tri ,
Quyết là không có năng tri được nào .

62. 

Nếu bảo khi không thanh, biết sắc .
Sao lại không nghe được âm thanh .
“ Vì thanh lúc ấy chẳng gần ” ,
Thế thì nhĩ thức cũng bằng hư vô .

63. 

Cái tâm biết được âm thanh ,
Chuyển ra biết sắc sao thành thường chân .
“ Như người làm cả cha, con ” ,
Vậy là đối đãi chỉ còn giả danh .

64. 

Như Số luận chủ trương Ba đức ,
Cái làm nên thực chất trường tồn .
Làm sao cha lại là con ,
Đã thường biết sắc chuyển thành biết thanh .

65. 

Nếu cho ví dụ đóng tuồng ,
Thì tâm thức ấy vô thường không chân .
“ Thức tuy khác dạng thể đồng ” ,
Đây điều Số luận chưa tầng nói ra .

66. 

“ Nếu đa dạng trở thành phi thực ,
Các dạng kia thực chất là chi .
Phải là cái ý thức kia ” ,
Chúng sinh như thế đồng thì một tâm .

67. 

Ngã có tâm cùng thần bất động ,
Cũng thành ra một giống trường tồn. .
Những tâm nghe thấy . . . đều lầm ,
Làm sao cái giả cọng đồng thực chân .

68. 

Cái vô tri chỉ như bình nước ,
Thì có đâu thành được ngã thường .
Thức tâm chờ vật mới thành ,
Thì vô tri đã tan tành còn đâu .

69. 

Nếu cái ngã thường hằng bất biến ,
Dính gì tâm chuyển biến li ti .
Ngã là bất biến vô tri ,
Hư không với ngã có gì khác nhau .

70.

 “ Nếu khôngthật ngã nào ,
Luật nhân quả ấy làm sao vận hành .
Con người tạo nghiệp qua nhanh ,
Còn ai chịu quả do mình đã gây ” .

71.

Con người tạo nghiệp đời nay ,
Với người thọ quả tương lai bất đồng .
Tôi cùng công nhận như ông ,
Thì còn chi nữa mà hòng cãi tranh .

71b-72a . 

“ Nhưng với nhân quả trong hiện thế ,
Cùng một căn thân ấy thì sao ” .
Trong nhân chẳng thấy quả nào ,
Cha con cùng lúc không sao sinh thành .

72b. 

“ Thế lời Phật dạy trong kinh ,
Ai làm nấy chịu ông đành bỏ qua .
Muốn ngăn chận kẻ ác tà ,
Đừng quên nhân quả Phật đà dạy răn ” .

73. 

Kỳ thực xét trên phần chân đế ,
Tâm vị lai quá khứ đều không .
Thì đâu có ngã hằng tồn ,
Tâm trong hiện tại diệt vong còn gì .

74. 

Hãy nhìn cây chuối thân kia ,
Lột ra từng bẹ còn gì nữa đâu .
Nếu đem quán tuệ tầm cầu ,
Không sao thấy được ngã nào thật chân .

75. 

“ Nếu hữu tình thật không hiện hữu ,
Khởi bi tâm để cứu kẻ nào ” . 
Do mê si khéo bày trò ,
Giả vờ độ chúng chứng mau bồ đề .

76. 

“ Không người, ai chứng quả đây ” , 
Do tâm si ám đặt bày thế thôi . 
Muốn trừ thống khổ mang vui ,
Bày ra huyễn quả huyễn người tu chân .

77.

 Chỉ nên bỏ mê lầm về ngã ,
Làm tăng thêm tất cả khổ nhân .
Cách trừ ngã chấp tuyệt luân ,
vô ngã quán triệt dần khổ đau .

78a. 

Trước hãy xét cho sâu thân thể ,
Xem cái gì đáng kể là thân .
Dưới từ hai gót bàn chân ,
Đùi và vế chẳng phải thân chút gì .

78b - 79

Bụng lưng cùng ngực với vai ,
Xương sườn, tay, nách, cổ, đầu, ruột gan .
Bao nhiêu phủ tạng bên trong ,
Phần nào tên ấy thân đồng hư vô .

80. 

Nếu thân ở khắp mỗi phần ,
Thì toàn thân ở mỗi phần hay sao .
Còn thân thể thật ở đâu ,
Cái thân riêng chẳng phần nào tương can .

81. 

Nếu toàn thể ở mỗi phần ,
Bao nhiêu bộ phận, phải ngần ấy thân..
Thành ra vô số thể thân ,
Điều này phi lý chẳng cần đắn đo .

82. 

Cái thân không ở ngoài trong ,
Của từng mỗi một thân phần nọ kia .
Mỗi phần thân thể thật gì ,
Làm sao có một thân ly các phần .

83. 

Vậy nên biết cái thân không thật ,
Vì mê mờ các vật trong thân .
Tạo nên tâm chấp thể thân ,
Như lầm đống gạch xếp thành dáng ai .

84. 

Đá kia vẫn bị trông lầm ,
Khi bao điều kiện gây lầm chưa tan .
Khi còn tụ hội nhân duyên ,
Vẫn còn tay mặt giả danh thân người .

85. 

Như thân thể đã không thật có ,
Tay chân kia nào có thật chi .
Khi càng phân tích chẻ chia ,
Chỉ là ngón đốt li ti nhiều phần .

86. 

Chẻ chia đến mức tột cùng ,
Chỉ là những hạt không phần không phương .
Còn đâu tông tích cái thân ,
Dù trông như thật hư không khác gì .

87. 

Ai phân tích kỹ thân này ,
Lại còn tham luyến hình hài huyễn hư .
Thân dường như thể mộng mơ ,
Làm sao phân biệt trẻ già gái trai .

88. 

Kế đến xét khổ này nếu thật ,
Không bao giờ khổ tận cam lai .
Lạc không thực có mảy may ,
Vì khi đang khổ chẳng ai thích gì .

89. 

Nếu cho vì khổ đau cường liệt ,
Nên chẳng còn cảm giác lạc kia .
Nhưng chưa trải nghiệm cái gì ,
Sao thành lạc thọ được vì vô can .

90. 

“ Trong đại lạc khổ phần vi tế ,
Khổ nhỏ này cũng kể loại vui ” .
Cần chi phân tích lôi thôi ,
Có đâu cảm thọ đồng thời cả hai .

91. 

Nói “ Không khổ thọ hiện bày ,
Nơi tâm của một con người đang vui ” .
Đây là chấp trước lầm sai ,
Cái chưa hiển hiện sao bày đặt tên .

92. 

Vậy phải nên tu liền quán tuệ ,
Thấy Tính không đối trị sai lầm .
Không gì hiện hữu thật chân ,
Đây là mảnh đất dưỡng sanh nhà thiền .

93. 

Nếu có giữa căn trần khoảng cách ,
Thì làm sao có xúc sinh ra .
Nếu căn trần cũng một nhà ,
Cả hai là một ai mà gặp ai .

94. 

Hạt căn và hạt thuộc trần ,
Bằng nhau nên chẳng thể nằm trong nhau .
Không vào nhau chẳng gặp nhau ,
Đã không gặp gỡ còn đâu xúc gì .

95. 

Nếu cho chúng gặp nhau một phía ,
Tức thành ra hạt có nhiều phương .
Thì còn đâu hạt vi trần ,
Vốn là nhỏ nhất không phân được nào .

96. 

Với thức vô sắc kia cũng vậy ,
xúc trần vô lý lắm thay .
Nếu căn trần thức sum vầy ,
Phát sinh nhận biết thể nầy không chân .

97. 

Như trên xúc ấy làm nhân ,
Đã là không thực, thọ chân thật gì .
Nhọc công cầu lạc mà chi ,
Khổ nào tổn hại ai kia được nào .

98. 

Tìm tông tích không người cảm thọ ,
Lại không luôn cảm thọ khổ, vui .
Khi đà thấy được đến nơi ,
Quả kia là ái diệt ngay tức thì .

99. 

Những gì ta thấy hoặc sờ ,
Đều không có thực, mộng mơ huyễn hình .
Tâm sinh cảm thọ liền sinh ,
Nên tâm thọ chẳng tách riêng được nào .

100. 

Có thể nhớ thọ gì về trước ,
Hoặc cầu mong cảm giác về sau .
Bản thân kinh nghiệm có đâu ,
Một đầu đã quá một đầu chưa sinh .

101.

 Người cảm thọ đã không có thật ,
Nên thọ này cũng chẳng thật đâu .
Cớ sao huyễn hóa mặc dầu ,
Làm cho điêu đứng cả bầu thân tâm .

102. 

Ý thức không ở nơi căn ,
Cũng không nơi vật hay miền trung gian. .
Đã không ngoài cũng không trong ,
Hoặc nơi nào khác đều không thể thành .

103. 

Không phải thân, cùng thân không khác ,
Không hiệp thân chẳng tách rời thân .
Hoàn toàn không chút thật chân ,
Chúng sinh tánh vốn niết bàn từ xưa .

104. 

Nếu lìa cảnh vẫn còn có thức ,
Thì thức nương theo vật gì sanh .
Cả hai thức, cảnh đồng sanh ,
Thì sao thức ấy phải cần gặp duyên .

105a. 

Nếu thức xuất hiện sau đối tượng ,
Duyên cảnh gì để có thức sinh .
Vì khi thức ấy khởi lên ,
Tượng kia đã diệt thức thành trơ vơ .

105b-106a . 

Vậy nên không thể cho rằng ,
“ Sự sinh các pháp thật chân chút nào ” .
Nếu khôngtục đế đâu ,
Làm sao kiến lập hai đầu tục chân .

106b. 

“ Nếu tục đế lập vì kẻ khác ,
Đang mê lầm các pháp thật chân .
Thì làm sao để chúng sanh .
Từ đau khổ đến niết bàn an vui ” .
Dù cho có một số người ,
kinh nghiệm được niềm vui niết bàn .
Thì không khỏi kẻ nghi nan 
Vẫn còn tương đối trong vòng diệt sinh” .
Thật là có sự Vô sinh ,
Vì không liễu đạt, cho thành ngoa ngôn .
Nhưng không vì kẻ mê lầm ,
Niết bàn chân thật trở thành hư vô .

107. 

Phân biệt ấy do người chưa thoát ,
Khi ngộ rằng các pháp phi chân .
Thì đây đích thực niết bàn ,
Không còn kiến lập tục chân làm gì .

108a. 

“ Tâm phân biệt cùng là đối tượng ,
Đều tương quan vay mượn lẫn nhau .
Cảnh kia nếu chẳng thật đâu ,
Cái tâm quán sát truy cầu thật chăng ” .

108b. 

Đây là tục đế thế gian ,
Đúng theo chân đế tâm không thật gì .

109. 

Khi Không tính đã tìm ra ,
Không cần tâm nữa xét tra tâm này .

110. 

Đối tượng tâm hiển bày chẳng thật ,
Thì tâm kia mất chỗ náu nương .
Cảnh không tâm cũng không sanh ,
Chính là tự tính niết bàn an vui .

111. 

Thuyết cho rằng cảnh tâm đều thật ,
Lập luận này xét thật khó tin .
Cảnh kia do thức mà nên ,
Thức này thành lập do duyên cái gì .

112.

 Thức mà do cảnh lập ra ,
Cảnh thì ai lập thế là vần quanh .
Cảnh tâm đối đãi mà nên ,
Cả hai cần biết chẳng chân thật gì .

113. 

Không con đâu gọi là cha ,
Không cha con ấy vậy là ai sinh .
Cha con đối đãi mà nên ,
Cũng như tâm cảnh chẳng thành thật chân .

114. 

“ Như mầm từ hạt giống sanh ,
Do mầm biết có hạt nằm dưới kia .
Do tâm từ cảnh sinh ra ,
Mà ta biết được cảnh kia thật tồn ” .

115. 

Do tâm khác với hạt mầm ,
Cho nên biết hạt từ mầm nọ kia .
Nhưng khi nhận thức cảnh gì ,
Thì do đâu biết có tâm thức này .

116.

 “ Mọi sự không do gì sanh cả ” , 
Nhưng thế gian thấy có nhân sinh .
Như là rễ - cọng - hoa sen ,
Có ra do những nhân duyên hợp thành .

117. 

“ Do gì sinh sai biệt nhân ” ,
Ấy do nhân trước không từng giống nhau.
“ Từ nhân sao có quả sinh ” ,
Đấy do năng lực vận hành từ xưa .

118. 

“ Trời Tự tại sinh ra tất cả ” ,
Xin hỏi ông trời đó là chi .
“ Ngài là đất , nước , hư không ” , 
Chỉ là tứ đại chứ thần thánh chi .

119. 

Đất nước vốn vô thường nhiều thứ ,
Bị dẫm lên dơ uế không thiêng .
Không sao gọi được thần linh ,
Đặt tên là Tự tại thiên thêm rầu .

120. 

Hư không cũng chẳng là Tự tại ,
Ngã cũng không tự tại chút nào .
“ Khó tư nghì về đấng tối cao ” , 
Thế thì nói đến ông đâu ích gì .

121a. 

“ Những gì trời ấy sản sinh ,
Cái ta , đại chủng bản thân của ngài ” . 
Đã xem trường cửu trước đây ,
Sao giờ nói những thứ này được sinh .

121b. 

Trời cũng không thể sanh tâm thức ,
Duyên cảnh mà các thức liền sanh .

122a-122b

Và do tích thiện ác hành ,
Từ vô thủy kiếp nay thành thức tâm .
Nếu nhân đã là không khởi thủy ,
Quả sao mà khởi thủy được sinh .

123a-123b

Sao không sáng tạo liên miên ,
Đã là Tự tại không duyên pháp nào .
“ Quả liên tục không phát sinh .
Nhân tuy trường cửu sinh cần có duyên ” .
Đã là đấng Tự tại thiên ,
Tất nhiên không thể cần duyên tác thành .

124. 

Nếu nhiều duyên họp sinh ra quả ,
Thì duyên kia chính đã là nhân .
Các duyên nhóm họp thì sanh ,
Không duyên tụ hội bất thành vật chi .

125. 

Nếu quả sinh không do thiên dục ,
Tức là do năng lực khác sanh .
Nếu do trời muốn mới thành ,
Tức trời còn thuộc ý hành đổi thay .

126. 

Thắng luận nói hạt nhân trường cửu ,
Đã bác không thực hữu vi trần. .
Luận sư Số luận chấp rằng ,
Chúng sinh do một thường hằng chủ ông .

127. 

“ Lạc, ưu và ám bình quân ,
Là ba tánh đức chủ nhân trị vì .
Quân bình ba tánh lung lay ,
Tạo nên vũ trụ muôn loài chúng sinh ” .

128. 

Ba tính bất đồng trong một thể .
Chủ trương này phi lý lắm thay ,
Dù cho có những tính này ,
Mỗi nguyên tố phải trưng bày thành ba .

129. 

Nếu không ba tính làm nhân ,
Quả là thanh sắc chẳng từng thực chi .
Lại như vật chất vải y ,
Vô tâm nên cũng không gì lạc, ưu .

130 a.

 “ Y phục có tính như ba đức ,
Vì sinh ra lạc thọ vân vân ” .
Như trên phân biệt rõ rành ,
Không gì thật hữu: thể thân , áo quần .

130b.

 Lại theo Số luận chủ trương ,
Do nhân ba đức phát sanh áo quần .
Nhưng nhân gian cũng thấy rằng ,
Khổ vui sanh vải thật không đúng nào .

131. 

Nếu vải mà sanh ra lạc khổ ,
Không vải thì lạc khổ không sanh .
Cho nên nói lạc thường hằng ,
Tuyệt nhiên không phải thật chân chút nào .

132. 

Lạc ( ba tính ) nếu là hằng có ,
Sao không vui khi khổ phát sinh .
“ Vì khi ấy lạc tế tinh ” , 
Khi thô khi tế sao thành thường nhân .

133. 

Vậy ba tính ấy vô thường ,
Khi vầy khi khác luôn luôn đổi dời .
Sao không thừa nhận do đây ,
Hữu vi tất cả pháp này biến thiên .

134. 

Lạc đã có khi thô khi tế ,
Hiển nhiên là lạc ấy vô thường .
Trong nhân đã chẳng có chi ,
Tuyệt nhiên đâu có quả gì được sinh .

135.

Dù ông có chấp nhận rằng ,
“ Quả tuy chẳng hiện ẩn tàng trong nhân ” .
Quả mà sẵn trú trong nhân ,
Ăn vào thực phẩm cũng đồng ăn dơ .

136 a. 

Lại sao ông chẳng mua bông vải ,
Thay vì mua vải dệt thành y .
Thế gian vì vẫn còn mê ,
Nên không thấy những vật kia thể đồng ” .

136b. 

Nhưng tông chủ Số luận tông ,
Cũng mang y phục từ bông vải thành .

137a. 

Quả mà hiện hữu trong nhân ,
Thì sao người tục chẳng đồng tôn sư 

137b. 

“ Kẻ phàm tục khi chưa đắc quả ,
Kiến thức chưa có giá trị gì ” .
Những gì do họ thấy ra ,
Vậy thì cũng chẳng phải là chính chân .

138. 

“ Mọi tri thức đều sai lầm ,
Thì Không tính ấy chẳng lầm hay sao. ,
Đương nhiên nó chẳng thật nào ,
Không chân thật ích gì đâu tu hành ” .

139. 

Khi chưa thấy sai lầm chấp thật ,
Thì tính không phi thực khó bàn .
Nhưng khi vừa thấy giả không ,
Cái tâm biết huyễn chẳng cần nữa chi .

140. 

Như người nằm mộng chết con ,
Nhớ ra vốn chẳng có con cái gì .
Giả tâm biết phi hữu này ,
Khử trừ được ý tưởng về hữu kia .

141. 

Khi phân tích để làm sáng tỏ ,
Không vật gì không có nguyên nhân .
Không hề có độc một nhân ,
Hay là tập hợp các nhân khởi đầu.

142. 

Mọi pháp không do từ đâu đến ,
Không trú và diệt chẳng đi đâu .
Do tâm mê chấp nặng sâu ,
Thấy ra có thật mặc dầu huyễn hư .

143. 

Hãy tra xét dần ra manh mối ,
Sự vật do duyên hội mà thành .
Cùng bao cảnh vật huyễn sanh ,
Chúng từ đâu đến thực tình đi đâu .

144. 

Nhân duyên tu hội hiện hình ,
Nhân duyên tan rã thấy hình chi đâu .
Đời hư huyễn tợ chiêm bao ,
Cảnh duyên sinh ấy khác nào bóng gương .

145. 

Nếu cho các pháp là thật có ,
Còn cần chi tìm rõ nguyên nhân .
Nhược bằng các pháp vốn không ,
Nhọc công tìm kiếm nguyên nhân làm gì .

146. 

Dù do ức vạn nguyên nhân ,
Hữu không thể biến từ không được nào .
Vô đà không thể thành chi ,
Mất vô chẳng thể lấy gì hữu sinh .

147. 

Nếu vào lúc vô, không có hữu ,
Thì lúc nào hữu mới có nên .
Khi mà cái hữu chưa sinh ,
Đương nhiên chưa thoát khỏi vành hư vô .

148. 

Khi chưa tách khỏi hư vô ,
Hữu không thể có thời cơ hiện hình .
Cũng không thể trở thành vô ,
Hóa ra vừa hữu vừa vô một mình .

149. 

Thế nên tánh diệt bất thành ,
Tánh sinh cũng chẳng có thành được đâu. .
Chúng sinh ngay tự buổi đầu ,
Chẳng ai có diệt ai nào sinh ra .

150. 

Chúng sinh có hiện dù sao ,
Chỉ như cây chuối chiêm bao mơ màng .
Nên sinh tử với niết bàn ,
Cũng đồng một thể bước đường không hai .

151. 

Trong lý tánh xưa nay không vật ,
Thì có chi để được, mất đâu .
Có ai cung kính cúi đầu ,
Có ai khinh miệt ai đâu mà bàn .

152. 

Từ đâu vui khổ sinh ra ,
Có chi để khổ, chi mà vui chăng .
Tìm đâu cho thấy được rằng ,
Ai người tham ái ái tham cái gì .

153. 

Xét sâu trên thế giới này ,
Có ai sắp chết ai đang sinh thành .
Đã sanh và sẽ thọ sanh ,
Thật đâu thân hữu gia đình bà con .

154. 

Hỡi những ai tra tầm sự thật ,
Nhận cho rằng muôn vật huyễn hư .
Chỉ vì ham muốn riêng tư ,
Mãi hoài tranh chấp ghét thù thương thân .

155. 

Vì mưu hạnh phúc bản thân ,
Phát sinh lo lắng đấu tranh nhọc nhằn .
Có khi cốt nhục tương tàn ,
Gieo nhân ác chịu trăm ngàn khổ đau .

156. 

Dù gặp được sang giàu lạc thú ,
Chết rơi vào đọa xứ gian nan .

157. 

Trong ba cõi thực bất an ,
Bị nhiều trói buộc lẽ chân khó tìm .

158. 

Trải bao xiết vô vàn thống thổ ,
Lực thiện hành thì quá nhỏ nhoi .
Thời gian thấm thoắt như thoi ,
Thoáng qua già chết mất toi kiếp người .

159. 

Chỉ vì lo giữ mạng này ,
Chịu bao đói khát đọa đày tấm thân .
Một đời lo chuyện ngủ ăn ,
Bị người tác hại ác nhân bạn bầu .

160. 

Một đời vô nghĩa chóng qua ,
Không từng thấy vạn phápTính không. .
Đời nay có cách gì chăng ,
Diệt trừ tán loạn trong tâm ý này .

161. 

Thế lực của quỷ ma rất mạnh ,
Khiến sa vào bất hạnh lớn lao .
Đường tà nẻo ác dấn sâu ,
Đâu là chính đạo không sao tỏ tường .

62. 

Khó thay được lại thân người ,
Khó thay gặp Phật ra đời độ sanh .
Khó thay đoạn dứt vô minh ,
Thương thay thống khổ liên miên hữu tình.

163. 

Mây trôi bèo giạt lênh đênh ,
Ngu si chẳng ý thức mình khổ đau .

164. 

Kẻ thì nước lửa lao đầu ,
Hành thân hoại thể tự kiêu hạnh tà .

165. 

Sống như chẳng bao giờ già chết ,
Theo sắc thanh mê mệt đảo điên .
Tử thần đoạt mạng trước tiên ,
Sau còn ác đạo triền miên đọa đày .

166. 

Bao giờ phước như mây tích tụ ,
Giáng cơn mưa pháp vũ cam lồ .
Lửa hừng phiền não tan mau ,
Chúng sinh an lạc đạo mầu chứng nên .

167. 

Bao giờ tâm được rỗng rang ,
Hằng duyên Không tính, không duyên pháp nào .
Chúng sinh chấp hữu sầu đau ,
Tính không diệu pháp giải bao khổ nàn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19688)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23951)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41208)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19686)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23973)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23291)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27496)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26549)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29305)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33176)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20179)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25760)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20902)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31301)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38552)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21424)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44240)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29812)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42187)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22128)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45735)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32103)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23946)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24377)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29244)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33906)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27676)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32118)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21058)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28840)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21561)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28055)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22058)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21421)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19489)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19457)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19827)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19233)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29168)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20607)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28272)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23645)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33163)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31831)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21363)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39609)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21542)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19365)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24810)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21747)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22370)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29124)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22550)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20465)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23508)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21229)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35304)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24539)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant