Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

01 Giảng Lược Đề Cương Kinh Pháp Hoa

26 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6899)
01 Giảng Lược Đề Cương Kinh Pháp Hoa

ĐỀ CƯƠNG KINH PHÁP HOA
Hoà Thượng Thích Nhật Quang
Thiền Viện Thường Chiếu

 

Giảng Lược Đề Cương Kinh Pháp Hoa

Kinh Pháp Hoa là một bộ kinh trọng yếu. Theo chương trình tu học của thiền viện, sau khi các thiền sinh đã học qua những bản kinh căn bản, thì học tới kinh Pháp Hoa. Đáng lẽ chúng ta học nguyên bản kinh Pháp Hoa, nhưng bộ này đã được Hòa thượng Ân sư giảng giải rồi. Để chư huynh đệ nắm được cương lĩnh toàn bộ kinh, chúng ta học thêm Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam, giúp chúng ta thấy rõ chỉ thú của thiền thông rất sâu sát với lời Phật dạy.

Kinh này qua các thời được rất nhiều vị tôn túc nghiên cứu, dịch thuật, giảng giải, chú sớ. Về phương diện thọ trì, Phật tử Việt Nam đa số đều thọ trì kinh này. Cho tới bây giờ, bản dịch kinh Pháp Hoa của Hòa thượng Chủ tịch Phật giáo Việt Nam đã in ra rất nhiều lần, được lưu hành rộng rãi trong các giới học Phật Việt Nam. Cho nên nói đến kinh Pháp Hoa thì hàng Phật tử không ai không biết. 

Quyển Pháp Hoa Đề Cương do thiền sư Minh Chánh soạn. Sư là người Việt Nam sống vào thời Nguyễn, tu theo tông Tào Động đàng ngoài, một trong những tông phái Thiền từ Trung Hoa truyền sang nước ta. Đề cương này ra đời khoảng năm 1819, được đưa vào Phật Điển Tùng San, là một trong mười tác phẩm của bộ sách quý ấy, do Hội Phật giáo Bắc kỳ chủ trương biên tập, khắc bản. 

Từ thời chấn hưng Phật giáo, ba miền Bắc Trung Nam của nước ta, mỗi nơi đều có Hội Phật giáo. Hội Phật giáo này gồm hai giới xuất giatại gia. Người xuất gia nằm trong “Giáo hội Tăng-già”, người tại gia nằm trong “Hội Cư sĩ Phật học”. Ở Bắc kỳ có Giáo hội Phật giáo Bắc kỳ và Hội Cư sĩ học Phật Bắc kỳ. Ở Trung Việt có Giáo hội Phật giáo Trung Việt và Hội cư sĩ học Phật Trung Việt. Ở Nam Việt có Giáo hội Phật giáo Nam Việt hay Giáo hội Tăng-già Nam Việt và Hội Phật học Nam Việt. Hai giới tăng tục, đệ tử của Phật cùng tu học và xương minh giáo pháp của Như Lai.

Năm xưa ở Thiền viện Chân Không, Hòa thượng dạy kinh Pháp Hoa, ngài có bộ Phật Điển Tùng San. Nhân tìm hiểu lịch sử cũng như tất cả những bản sớ giải kinh Pháp Hoa của Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng đưa bản Pháp Hoa Đề Cương này ra, dạy chúng tôi phiên dịch, sau đó ngài hiệu đính rồi cho in năm 1972. Đây là một quyển sách dễ đọc và học, vì vậy thay vì học nguyên bản kinh Pháp Hoa, tôi giảng giải quyển Pháp Hoa Đề Cương này cho chư huynh đệ. Vị nào muốn tìm hiểu nguyên bản thì tham khảo nơi bản giảng giải kinh Pháp Hoa của Hòa thượng Viện Trưởng. Như vậy là chúng ta có đầy đủ tài liệu về kinh Pháp Hoa để nghiên cứu, nắm được tôn chỉ ý thú của kinh. Từ đó chúng ta có thể nhận ra tri kiến Phật nơi chính mình. Đó là mục tiêuđức Phật ra đời muốn chỉ dạy cho tất cả chúng ta. Đồng thời cũng là chủ ý của chúng tôi muốn cùng chư huynh đệ học lại diệu nghĩa kinh Pháp Hoa, ngõ hầu tiến sâu trong công phu tu tập, thực hiện hoài bão tha thiết nhất của một người tu, đó là giác ngộ giải thoát thành Phật

Trong nguyên bản Đề Cương này, có nhiều phẩm tác giả chỉ nói tóm lược, mà không nêu rõ tên mỗi phẩm. Vì muốn tiện lợi cho việc tham khảo của quý độc giả, dịch giả tự ý ghi thêm tên mỗi phẩm, theo thứ tự của mục lục toàn kinh. Ngoài ra, khi gặp những danh từ chuyên môn, dịch giả chú thích ra. Trong nguyên bản có những khoảng thượng nhân Minh Chánh xưng tán danh hiệu Phật như Nam mô Quá Khứ Đa Bảo Như Lai hoặc Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật v.v… Khi bản dịch đang trôi chảy mà xen danh hiệu Phật vô như thế, chúng tôi thấy không suông, lại làm loảng mất ý chính của kinh, nên chúng tôi xin lược bớt. Như vậy, trình tự và ý thú của toàn kinh được liên tục, và quý vị theo dõi dễ dàng. Sau cùng, dịch giả dẫn thêm mục lục toàn kinh theo bản dịch của Hòa thượng Trí Tịnh, tức Hòa thượng Chủ tịch Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày nay. 

Trước khi đi vào nội dung bản kinh, tôi có viết hai dòng: 

Cung kính dâng lên Thầy, 

Người chỉ con lối sống

Và một bài thơ chữ Hán, sau này được dịch ra Việt ngữ, nói lên lòng quy ngưỡng cảm trọng ân sâu của tôi dâng lên Hòa thượng Tôn sư

Ba mươi năm trôi giạt.

Chả biết ta là gì!

Quày đầu trông lối cũ,

A đấy, chính ta đi! 

Năm tôi lên Chân Không khoảng 28, 29 tuổi, dịch kinh này vào năm 30 tuổi. Trước khi lên Chân Không, tôi là một học tăng đang theo học ở Đại học Vạn Hạnh, cũng giong ruổi ngược xuôi như tất cả anh em trang lứa, nhất là giới sinh viên học Phật thời ấy. Cùng học với chúng tôi không chỉ có sinh viên Tăng Ni trẻ, mà nhiều vị Bác sĩ, Dược sĩ, Giáo sư v.v… thành phần trí thức lớn tuổi cũng có. Vì hâm mộ Phật pháp nên họ ghi danh học Phật khoa, thành ra giờ này có đông đảo giới trí thức tham dự. Giới học Phật bấy giờ rất vui vẻ, lý thú, sinh động. Những năm ở Đại học Vạn Hạnh, sinh viên chúng tôi chạy ngược chạy xuôi, toan tính chuyện nọ chuyện kia, đủ thứ chuyện trên đời! Nhưng cuối cùng tôi thấy vào núi đóng cửa tu hànhan toàn nhất.

Ngày xưaChân Không, cửa viện khoá lại, ai đến phải giật dây chuông. Thành ra mỗi khi có Phật tử hoặc thân nhân chư tăng muốn lên thăm rất khó. Giật chuông xong, thầy Tri khách ra hỏi thấy lý do chánh đáng mới mở cửa. Khách được mời vào phòng khách, chờ quý thầy gọi thiền sinh được thăm xuống. Nếu thăm vào lúc không phải giờ học, giờ tọa thiền thì được trò chuyện 15 phút, nếu nhằm giờ học hoặc tọa thiền thì khỏi thăm luôn. Trong lúc nói chuyện, thầy Tri khách đem cái đồng hồ đến để trước mặt và ngồi lại đó, hết giờ thầy sẽ nhắc cho khách biết mà rút lui! Trong núi không lưu khách ở lại đêm.

Hòa thượng dạy, ở trước nhà kháchcon đường dẫn lên đồi Tự Tại, tất cả các thiền sinh khi từ giã thân nhân, bước lên đồi Tự Tại chỉ ngó thẳng tới mà đi, không được quyền ngó lại. Một điều bình thường như vậy nhưng rất khó làm. Anh em nào đã quen rộn ràng ngược xuôi ở phố thị, lên núi chôn mình trong hoàn cảnh ấy, có khi bị bức xúc tu không tiến được. Nhưng ai đã quyết tâm, bước được những bước vững vàng thì sau đó thấy nhẹ nhàng. Mọi thứ ở trần gian đều xếp lại, gửi cho bà con bên dưới hết, trên núi sống như tiên. Tuy nhiên lúc đầu khó lắm.

Tôi là một trong nhóm mười thiền sinh đầu tiên của Chân Không, cũng là người ba năm đầu không xuống núi. Những người quen đi thăm, tôi tiếp một chút thôi, vì ngại mình yếu lòng. Ở trên núi trên non, nhờ sự hộ trì của Tam bảo, sự sắp đặt của Hòa thượng an toàn, nên ba năm đó tôi thấy rất an ổn. Được gì thì không biết, nhưng quả thực tôi đã cảm khái những vần thơ trên bằng tấm lòng chân thật của mình.

Ba mươi năm trôi giạt, chả biết ta là gì! Từ khi mình lớn lên, sinh hoạt, học hành… tất cả các thứ, cho tới ngày bước vô thiền viện, tôi không biết mình là gì! Bây giờ nhờ duyên thầy bạn chỉ vẽ, tôi nhận ra mình có cái chân thật. Từ lâu chúng ta chỉ sống theo bóng dáng hư giả mà thôi, ngược xuôi theo những âm vang bên ngoài, chưa có phút giây nào dừng lại để đối diện với chính mình. Các huynh đệnhập thất thì biết, bên ngoài sống với huynh đệ quen rồi, vô thất sống một mình năm ba ngày thôi là thấy đối diện với một cái gì thênh thang, thấy mình hụt hẫng rõ ràng. Những lúc như vậy mà hốt hoảng thì dễ điên lắm. Do đó hầu hết các bậc thiện hữu tri thứckinh nghiệm bản thân đều dạy chúng ta phải bình tĩnh, gan dạ. 

Ngày xưa chúng ta sống liều mạng với tất cả những thứ nguy hiểm, đồ giả mà dám ôm, dám giữ, dám đam mê, chấp nhận lao theo. Bây giờ các ngài chỉ cho mình cái thật. Lúc đầu chúng ta ngỡ ngàng, song nếu ai gan dạ dám bỏ cái giả để sống với cái thật thì an ổn vô cùng. Tu từng bước, tiến lên dần. Có khi mình cảm thấy cũng chơi vơi, khó khăn, bức xúc… đủ thứ chuyện vì chúng ta quen với sự ồn náo. Đừng nản. Cứ cố gắng sẽ có ngày thành công

Thế gian này là đồ giả mà hấp lực của nó rất lớn. Nếu trí lực tỉnh giác của mình chưa mạnh thì cái giả bên ngoài kéo lôi. Người thầy chỉ cho mình nhận biết được đó là giả, công ơn ấy to lớn sâu dày vô cùng. Bởi một khi ta biết đồ giả, nhận được cái thật là dừng chân liền. Không có các bậc thầy thì không ai chỉ mình dừng chân, bôn ba đời này kiếp nọ trầm luân sinh tử, bị cái giả lôi kéo. Bây giờ nhờ thiện tri thức chỉ cho biết cái thật, ta dừng chân được, ân ấy xứng gọi là ân cứu tử. Vì vậy, dưới bài thơ, tôi viết hai chữ Khể thủ (稽 首) tức là cúi đầu. Chúng ta xin cúi đầu ghi nhận thâm ân của thầy tổ, nỗ lực tu hành như những gì Phật dạy để đền tạ thâm ơn này. Mong các huynh đệ cũng như vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10247)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12229)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11526)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28678)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11925)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12896)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11339)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12255)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17272)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52684)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35367)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21195)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10585)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19073)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12301)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25827)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13204)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14266)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15955)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13625)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16700)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17397)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13012)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12426)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11518)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11468)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14407)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20258)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18808)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19414)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18490)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12100)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12182)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13739)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14884)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14950)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13859)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15413)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11292)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17016)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14824)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20037)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13744)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11626)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14923)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12882)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22747)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14469)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11540)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13076)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16775)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18235)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11855)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11410)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15710)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12787)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18781)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18257)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant