Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

10 Phẩm Trì

26 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7939)
10 Phẩm Trì

ĐỀ CƯƠNG KINH PHÁP HOA
Hoà Thượng Thích Nhật Quang
Thiền Viện Thường Chiếu

 

Phẩm Trì

CHÁNH VĂN

Tỳ-kheo ni thọ ký, là ý nhiếp phục Long nữ thành Phật ở trước. Bởi súc sanh cái ngộ tâm, còn có thể thành Phật thay, huống là người nữ hộ tâm mà chẳng được đạo hay sao? Không vì hình tướng để chia nam nữ, một tâm thanh tịnh xưa nay đồng.

Lại Bồ-tát trì kinh, nghĩa là người tu hành muốn hộ trì kinh này, thì chốn chốn nơi nơi, phải mặc áo nhẫn nhục, giữ giáp tinh tấn, cầm kiếm trí tuệ, vào rừng phiền não, dứt giống vô minh, khiến tâm được thường không tịch, tri kiến rỗng suốt, không các chướng ngại. Dù hành đạo này, mà bị đánh mắng cũng phải nhịn chịu. Tâm này chẳng tán động, cùng tột thuở vị lai, trọn không mảy may thoái chuyển

Như gió giữ thế giới, bền chắc chẳng động. Như đất chở chúng sanh không chút nhàm mỏi. Đấy mới thật là Phật tử biết gìn giữ tâm, cũng chính là người hoàn toàn không có ngã, thật sự là vị Bồ-tát hộ pháp vậy.

Kệ rằng: 

Chớ đem năm chướng báng chư ni,
Thọ ký rành rành chẳng thiếu gì,
Di Mẫu ngộ tâm, thành Chánh giác,
Da Thâu kiến tánh, chứng Bồ-đề,
Đã hay thấy đạo, mới hành đạo,
Rõ suốt vô vi, nói hữu vi,
Bồ-tát trì kinh nào có tướng,
Pháp nhẫn vô sanh khéo siêng trì.

GIẢNG

Tỳ-kheo ni thọ ký, là ý nhiếp phục Long nữ thành Phật ở trước. Phẩm Tỳ-kheo ni, nói đến các vị Tỳ-kheo ni được Phật thọ ký. Sau khi các vị đại thánh, các tôn giả đệ tử lớn được đức Phật thọ ký, trong hội chúng Tỳ-kheo ni cũng đoái mong đức Thế Tôn thọ ký. Nên tới phẩm này Phật thọ ký cho chúng Tỳ-kheo ni. Ở đây nhắc lại việc Long nữ chỉ tám tuổi, được đức Văn Thù trợ hóa tu tâmthành đạo

Bởi súc sanh cái ngộ tâm, còn có thể thành Phật thay, huống là người nữ hộ tâm mà chẳng được đạo hay sao? Không vì hình tướng để chia nam nữ, một tâm thanh tịnh xưa nay đồng. Lời nói này đả thông tất cả những vướng mắc từ xưa nay. Không vì hình tướng chia nam nữ, một tâm thanh tịnh xưa nay đồng. Câu nói này vượt ngoài tất cả hình thức, phạm vi đối đãi, nói thẳng một tâm đồng. Một tâm đây tức là tánh giác, khả năng thành Phật. Nói đến tánh giác thì không trái không phải, không nữ không nam, khả năng thành Phật ai cũng có. 

Lại Bồ-tát trì kinh, nghĩa là người tu hành muốn hộ trì kinh này, thì chốn chốn nơi nơi, phải mặc áo nhẫn nhục, giữ giáp tinh tấn, cầm kiếm trí tuệ, vào rừng phiền não, dứt giống vô minh, khiến tâm được thường không tịch, tri kiến rỗng suốt, không các chướng ngại. Dù hành đạo này, mà bị đánh mắng cũng phải nhịn chịu. Tâm này chẳng tán động, cùng tột thuở vị lai, trọn không mảy may thoái chuyển

Bồ-tát trì kinh này tức là gìn giữ tri kiến Phật của mình. Kinh chính là tâm, tâm chính là tri kiến Phật. Muốn trì kinh phải có giáp nhẫn nhục để bảo vệ. Giữ giáp tinh tấn, cầm kiếm trí tuệ vào rừng phiền não, dứt giống vô minh, khiến tâm được thường tịch. Một loạt những việc làm thuộc về công phu, chính chúng ta phải trải qua. Muốn thành tựu đến nơi đến chốn, hằng sống được với tánh giác, không thể chỉ nói suông thôi. Tổ Vĩnh Gia nói từ nhẫn lực, nhưng chúng ta chưa vận dụng tới độ đó, bởi vì mình sống quá tiện nghi, còn gì nữa mà nhẫn! Chưa thực hành đến đức nhẫn cao độ, nghĩa là chưa thành tựu được đức nhẫn sâu dày. Chúng ta chỉ nhẫn bình thường thôi mà còn chưa nhẫn được, mong chi tu sáng đạo.

Đời sống của một người tu hành nhất là của một thiền sinh, phải sống bằng trí tuệ, bằng khả năng giác ngộ, không nên quan tâm đến việc ăn mặc thường tình. Ở đây mặc áo nhẫn nhục, giữ giáp tinh tấn, nghĩa là chúng ta siêng năng và chịu đựng. Người tu luôn cầm kiếm trí tuệ trên tay, song hành với kiếm trí tuệ là cung thiền định. Trong công phu hằng ngày, nếu thiếu chịu đựng thì sẽ đổ vỡ hết, không siêng năng cũng trở thành ma lười nhác, khiến mọi người chán chê. Nếu chúng ta không có tỉnh lực thì nói gì đến định lực. Không có định lực, làm sao phát huy trí tuệ được. 

Trí tuệ nói ở đây là trí tuệ Bát-nhã, xuyên thủng được tất cả những tham đắm, chấp trước ngô ngã từ lâu nay, chứ không phải trí tuệ học ở cấp I, cấp II, cấp III v.v... Tất cả những kiến thức đó đối với người hành đạo không quan trọng. Bởi vì đôi khi những kiến thức ấy sẽ dẫn chúng ta càng đi càng xa đạo. Do có kiến thức nên dễ vướng vào hý luận, chữ nghĩa, mà lý luận nhiều là đi ngược lại với đạo lý, với sự tu hành chân chánh. Nhiều người rất có trình độ, muốn xuất gia, sắp đặt đủ thứ chuyện nhưng tới chùa ở một tuần lễ phiền não rồi cuốn gói đi. Vì họ chỉ hiểu chớ không hành được, nên chịu không nổi nếp sống thiền môn.

Trí tuệ Bát-nhã từ chỗ chuyên tâm, phản quan tự kỷ mà ra, chứ không phải lượm lặt bên ngoài. Thiền sư Toàn Khoát nói đồ bên ngoài là đồ giả, không phải của báu nhà mình. Người tu hành phải là một chiến tướng, có áo giáp tinh tấn tức là siêng năng. Siêng năng liên tục chứ không phải siêng năng từng đoạn từng phần. Chúng ta thường chỉ siêng năng một quãng nào thôi. Ví dụ từ sáng tới chiều mình siêng năng làm việc, nhưng từ 6 giờ 30 chiều cho tới 5 giờ sáng mình không siêng năng làm nữa, mà siêng năng ngủ. Ở đây nói là siêng năng liên tục. Quí vị học kinh, luật, luận thật nhiều, mà không siêng năng thì không đi tới đâu hết, giữa đường bỏ cuộc. 

Người không chịu đựng được sẽ làm vỡ tất cả những công trình của mình. Thiền định không có thì trí tuệ ở đâu ra, nếu có cũng chỉ là trí tuệ hiểu biết chuyện bên ngoài. Anh em hơn huynh đệ một chút liền nghĩ mình có trí tuệ, điều này không đúng đâu. Huynh đệ đi ăn về im lặng nghỉ ngơi, làm việc xong cũng không nói gì, rảnh rang đọc sách là người có trí tuệ… Còn kẻ cứ líu lo đủ thứ chuyện, lại cho mình hơn huynh đệ, thật ra là người kém trí tuệ.

Dứt giống vô minh, khiến tâm được thường không tịch, tri kiến rỗng suốt không các chướng ngại. Dù hành đạo này, mà bị đánh mắng cũng phải nhịn chịu. Tâm này chẳng tán động, cùng tột thuở vị lai, trọn không mảy may thối chuyển, từ đây mãi mãi cho đến khi nào thành Phật mới thôi. Bằng Phật mới vừa lòng mình, không hề thối chuyển. Thiền sư Minh Chánh dạy dù bị đánh mắng cũng phải nhịn chịu, không tán động từ đây cho đến cùng tột thuở vị lai. Tức là cho đến ngày nào chúng ta thành Phật trọn không có mảy may thối chuyển

Như gió giữ thế giới bền chắc chẳng động, như đất chở chúng sanh không chút nhàm mỏi. Đấy mới thật là Phật tử biết gìn giữ tâm, cũng chính là người hoàn toàn không có ngã, thật sự là vị Bồ-tát hộ pháp vậy. Thế giới quan của Phật giáo diễn tả những phương trời vô cùng vô tận. Ví dụ nói thời kỳ suy hoại của kiếp giảm có bốn giai đoạn gồm Thành, Trụ, Hoại, Không. Kiếp Hoại đã bắt đầu và thời của chúng tathời kỳ Hoại. Các hiện tượng nước ngập, do tầng ozon bị thủng nên tia cực tím soi xuống những vùng băng đã kết thành từng khối, làm băng này tan ra tạo thành nguồn nước dội xuống gây ra lũ lụt. Trong kinh nói là nước ngập thấu lên các tầng trời.

Qua giai đoạn nước ngập rồi tới giai đoạn hết nước, trái đất sẽ khô cằn và lửa bắt đầu cháy. Cháy cho tới tầng trời Tam Thiền, Tứ Thiền, nghĩa là cháy hết mười tám tầng trời của cõi Sắc. Sau khi lửa cháy hết rồi sẽ có những trận gió. Ở đây nói gió giữ gìn thế giới, có học mới biết câu này. Một trận gió thổi qua, tất cả trở thành bình địa. Bởi vì vạn vật đã cháy tiêu hết, chỉ còn tro bụi. Đây là thời hoại hết, tiếp đến sẽ chuyển sang kiếp không. 

Kiếp Không dài vô số kể. Qua kiếp Không sẽ dựng lập trở lại kiếp Thành. Bắt đầu cũng từ những trận gió. Khi gió thổi qua sự sống từ từ gầy dựng trở lại. Lúc đó chúng sanh sống tuổi thọ vô lượng vô biên, phước báu đầy đủ. Dần dần dân số đông đảo, họ bắt đầu tranh giành thức ăn và đất đai, ngô ngã bỉ thử phát sinh, tuổi thọ lại giảm dần cho tới chúng sanh sống khoảng trên hai ngàn tuổi thì đức Phật Di Lặc ra đời. 

Chúng sanh có mặt ở đây đang sống trong kiếp Hoại nên tuổi thọ cứ giảm dần. Cứ một trăm năm giảm một tuổi, chừng nào chúng sanh trên địa cầu này chỉ sống tới mười tuổi là một đời người, xem như cùng cực của kiếp Hoại. Bấy giờ xảy ra các tam tai như trên đã nói. Lúc đó con người ác vô kể, những thức ăn và đồ vật đang dùng sẽ trở thành các công cụ giết người độc hại ghê gớm.

Rõ ràng chúng ta thấy đó, bây giờ thức ăn trở thành độc tố rất nhiều. Từ đâu ra? Thức ăn bản chất không phải độc, nhưng do lòng tham của con người mà thành độc. Ví dụ con người tham cấy lúa được nhiều vụ, muốn tăng năng suất lên cao để thu tiền, nên tống độc tố vô trong lúa. Người dân tiêu thụ lãnh đủ. Hoặc trồng nhãn, trồng điều, trồng khoai đều dùng các loại thuốc dinh dưỡng, thuốc tăng trưởng cho nó mau lớn. Do vậy đã đưa chất độc làm ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, phát sinh các căn bệnh trầm trọng gây nguy hiểm đến tính mạng của cộng đồng như ung thư…

Tất cả những việc làm này không do ai chỉ bày cả, mà từ ác tâm của chúng sanh ra. Bây giờ mình tham đắm, làm gì cũng muốn trăm năm ngàn năm. Thử tưởng tượng khi tuổi thọ chỉ còn mười tuổi thì tham vọng, tâm ác độc của con người sẽ ghê gớm tới đâu nữa. Tuy nhiên bấy giờ những người có chủng Phật đặc biệt sẽ tựu thành. Nghĩa là trong số vô lượng chúng sanh chịu sự suy thoái của thời kiếp, có những chúng sanh gầy dựng được chủng Phật. Họ nghe hiểu và tu thập thiện, dù tu không hoàn chỉnh nhưng vẫn có chủng tốt. Kiếp Hoại hết nhưng chủng thiện không hoại. Những chúng sanh nào biết phát huy chủng thiện, sẽ hoán chuyển sang thế giới có nhiều phúc lạc. Do đó nếu người tu hành chân chánh sẽ không sợ gì về chuyện kiếp Hoại, không sợ lửa gió hay lũ lụt chi hết. Vì phước sẽ hoán chuyển họ đến nơi thuận lợi yên ổn. Dù ở thế giới nào họ vẫn tu tập, vẫn sống hiền lành. Rõ ràng tạo nhân lành thì hưởng quả lành. 

Ngày xưa Sơ tổ Trúc Lâm xuống núi, vào trong dân gian giảng dạy Thập thiện để chuyển hóa nhân dân. Hòa Thượng Ân sư của chúng ta tuy dạy thiền nhưng cũng tùy cơ duyên của chúng sanh, ngài dạy giáo lý thâm diệu, vừa thiền vừa giáo chứ không nói thuần thiền. Bởi vì nói thuần thiền tuy hay song những người căn cơ kém làm không được. Đó gọi là phương tiện thiện xảo của các bậc thiện tri thức.

Tâm này chẳng tán động, cùng tột thuở vị lai trọn không mảy may thối chuyển. Như gió giữ thế giới bền chắc chẳng động, như đất chở chúng sanh không chút nhàm mỏi, đấy mới thật là Phật tử biết gìn giữ tâm, cũng chính là người hoàn toàn không có ngã, thật sự là vị Bồ-tát hộ pháp vậy. Tâm vững như gió giữ thế giới không động, như đất chở chúng sanh không chút nhàm mỏi. Chúng ta thấy đất có sức chịu đựng không gì bằng. Đào xới cũng được, thải đồ dơ lên cũng được, đi bằng đôi chân cũng được, mà nện bằng các mũi nhọn cho lủng cũng được. Không khi nào đất nói gì. Làm sao tâm nhẫn của chúng ta cũng như vậy. 

Chớ đem năm chướng báng chư ni,

Thọ ký rành rành chẳng thiếu gì,

Di Mẫu ngộ tâm, thành chánh giác,

Da Thâu kiến tánh, chứng Bồ-đề,

Đã hay thấy đạo, mới hành đạo,

Rõ suốt vô vi, nói hữu vi,

Bồ-tát trì kinh nào có tướng,

Pháp nhẫn vô sanh khéo siêng trì.

Chớ đem năm chướng báng chư ni nghĩa là không nên y cứ trên hình tướng nam nữphân biệt, cho rằng người nữ nhiều chướng ngại, không thể làm được việc lớn. Như trong kinh nói người nữ không được làm chuyển luân thánh vương, người nữ không được làm Phật v.v… đó là những chướng ngại của họ. Thế gian thường có định kiến cho rằng tâm người nam rộng lớn, tâm người nữ nhỏ hẹp. Ở đây nói đến tâm thì không có tướng nam nữ cho nên khuyên nhắc chúng ta không căn cứ những hình thức ấy mà chê bai nữ nhân

Việc thọ ký của đức Thế Tôn rành rành đó. Di mẫu ngộ tâm thành chánh giác. Di mẫu là dì của Phật, tức bà Kiều Đàm Di, đứng đầu bên Ni giới. Da thâu kiến tánh chứng Bồ-đề, tức bà Da Du Đà La kiến tánh và chứng Bồ-đề. Thành ra thiền sư Minh Chánh nói về ngộ tâm, kiến tánh, thấy đạo, rõ suốt v.v… chứ không nói người nữ, không nói nghiệp chướng, không nói cao thấp chi hết. 

Đã hay thấy đạo mới hành đạo

Rõ phước vô vi nói hữu vi

Bồ-tát trì kinh nào có tướng, 

Pháp nhẫn vô sanh khéo kiên trì

Chúng ta tu tâm, hành đạo từ tâm, mặc giáp nhẫn nhục, tinh tấnchịu đựng, đủ định lực để phát huy trí tuệ Bát-nhã. Việc lớn của người tu là như thế. Người tu mà thiếu trí tuệ thì không thành tựu đúng như pháp được. Lúc ở ngoài đời, chưa xuất gia quí vị sống và theo qui luật của thế gian. Mọi người được sinh ra, được nuôi dưỡng lớn lên, được đi học và gầy dựng cuộc đời, đó gọi là sự nghiệp thế gian. Tùy theo phước duyên mỗi người mà họ thành công hay thất bại trên đường đời. Nhưng vào đạo thì không đặt sự nghiệp trên các lãnh vực ấy mà đặt trí tuệ lên trên. Có trí tuệ thì sống đúng, làm đúng với chánh pháp, không đọa lạc, không đau khổ. Không có trí tuệ thì dù thành công kiểu nào cũng vẫn khổ như thường. 

Theo tinh thần Phật giáo đại thừa, không luận người xuất gia hay hàng cư sĩ tại gia, những vị hộ giới hộ pháp, những vị Quốc Vương, những vị làm công tác lãnh đạo Quốc gia… nếu được huấn luyện, được nuôi nấng trong niệm thiện, phát huy theo hướng thiện thì các vị ấy sẽ làm rất nhiều việc lợi ích cho chúng sanh. Đôi khi họ có điều kiện làm được nhiều việc hơn người xuất gia nữa. Trái lại nếu không được nuôi dưỡng trong chánh pháp, để tâm tham sân si chi phối, chẳng những họ không làm được điều gì lợi ích cho dân tộc, mà còn gây tạo nhiều nghiệp nhân bất thiện, làm khổ mình khổ người. Điều này thật nguy hiểm, rất đáng lo sợ. Tóm lại Bồ-tát vào đời với mọi hình thức, không nhất thiết phải là người xuất gia, bởi vì hạnh nguyện của các ngài được thể hiện theo nhiều cách, nhiều phương thức khác nhau.

Ở đây chúng ta cố gắng tự kiểm và lấy những điểm này làm chuẩn mực quyết định công phu của mình. Thứ nhất là siêng năng liên tục. Thứ hai là chịu đựng bền bĩ. Thứ ba là tỉnh lực thường xuyên và mạnh mẽ. Những điều kiện đó hoàn chỉnh rồi thì trí tuệ sẽ sáng tỏ viên mãn. Trí tuệ này không phải do cầu nguyện, không do Phật ban cho, mà do công phu của ta phát sinh.

Quý vị có đọc truyện Tây Du thì biết. Trong thời gian Tôn Hành Giả học đạo, chỉ mỗi việc ông thầy kêu đổ cái ống nhổ ở chỗ không trời đất là đủ bí rồi. Đâu có chỗ nào không phải trên trời dưới đất, chỉ còn cách nốc vô bụng là yên thôi. Cho nên ông nốc quách cái ống nhổ vô bụng. Quý vị tưởng tượng xem, đàm giải của mình nhổ ra còn không thể nuốt lại được, huống là của người khác, vậy mà Tôn Hành Giả nuốt vô bụng một cách bình thường. Rõ ràng phải là người nuôi chí lớn mới làm nổi chuyện ấy. Do đó ông theo học đạo chẳng bao lâu, đã được những thần dụng biến hóa khôn lường. 

Người nào đối với ngô ngã bỉ thử triệt hết đi thì mới phát huy đại sự được. Ở đây nói nếu chúng ta cắt đứt các duyên chung quanh thì sẽ nhẹ nhàng, dù không được Phật thọ ký cho thành Phật, nhất định cũng sẽ thành Phật thôi. Vì vậy mong tất cả huynh đệ kiên trì nuôi lớn đức nhẫn bằng chính nguồn trí tuệ nơi mỗi chúng ta.

CHÁNH VĂN

Bốn hạnh an lạc, là bảo người hộ trì tâm này, nếu ở trong Già-lam, hoặc nơi chợ búa, phải khéo nương nơi bốn hạnh an lạc, đáo xứ tùy duyênthuyết pháp giáo hóa

GIẢNG

Phẩm An Lạc Hạnh nói về hạnh an lạc của người tu, đặc biệt là người xuất gia. Chúng ta sống như thế nào, tu tập như thế nào để những người chung quanh tiếp cận với mình cũng được an lạc. Hạnh an lạc gồm có bốn:

1. Hành xứ: Bồ-tát luôn nhẫn nhục, nhu hòa, không bị ngoại cảnh kéo lôi hay tác động

2. Thân cận xứ: Bồ-tát không gần gũi vua quan hay những người có quyền thế, người tu theo ngoại đạo… Bồ-tát luôn thấy tánh Không của các pháp. 

3. An lạc hạnh: Sau khi Như Lai diệt độ, người nào muốn nói kinh Pháp Hoa phải trụ trong an lạc hạnh. Nghĩa là không nói lỗi người, không kiêu mạn, không giải đãi, không oán hận, không ganh tỵ. Phát khởi tâm đại bi với tất cả chúng sanh, đối với Bồ-tát phải cung kính cúng dường như bậc Thầy. 

4. Phát đại bi tâm: Trong đời mạt pháp, ai muốn thọ trì kinh này phải sanh tâm đại bi với hàng xuất gia cũng như tại gia. Đối với chúng sanh, phát nguyện khi ta thành tựu chánh giác sẽ độ tận chúng hàm linh

Làm sao để bản thân mình được an lạc, an trú trong chánh pháp, làm lợi lạc cho chúng sanh. Người xuất gia là người mang chí cả, mang tinh thần siêu việt thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sanh

Trong giai đoạn thượng cầu Phật đạo, chúng ta học tập và áp dụng lời Phật dạy vào đời sống. Nghiên cứu tiếp thu những tinh ba Phật pháp, tôi luyện và sống làm sao cho chân hạnh được hiện bày. Huynh đệ học Phật pháp không phải để phô trương ra ngoài, biểu trưng cho mọi người thấy mình thông minh, hiểu nhiều nhớ nhiều. Quan trọng nhất là áp dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, như thế mới có thể thực dụng được hạnh an lạc như ở đây nói.

Già-lam là chùa, viện, nơi người tu hành an trú. Trong lúc hành đạo, chúng ta có mặt ở đâu đều thể hiện tròn đầy hạnh an lạc. Trong chùa cũng vậy, ở am thất cũng vậy, đi giáo hóa chúng sanh cũng vậy. Bây giờ đang sống trong thiền viện là đại già-lam, trước nhất bản thân chúng ta phải thể hiện hạnh an lạc. Đó là hạnh gì? Hạnh giữ giới, thiền định, tỉnh giác liên tục. Dù chưa được hoàn toàn như thế, nhưng với tâm nguyện, sự kiên quyết, chúng ta nỗ lực giữ gìn oai nghi tế hạnh, giữ gìn đạo đức, thể hiện tròn đầy hạnh an lạc.

Trong luật kể lại câu chuyện thế này. Có một vị tăng lỡ đường giữa chốn rừng núi. Nửa đêm, ngài tìm được một hang đá và định nghỉ lại đó. Người ta cho hay nơi này có quỷ dữ, hầu hết những người tá túc qua đêm đều mất mạng, họ khuyên ngài không nên nghỉ nơi đây. Nghe thế nhưng ngài vẫn bình thường. Vào trong hang ngài dọn dẹp, lấy đại y treo chắn ngang phía trước làm cái màn, lấy hạ y trải xuống làm ngọa cụ, lấy trung y đắp trên thân. Ngài tọa thiền quá nửa đêm, hành đúng hạnh của người xuất gia. Sau đó ngài nghỉ đêm trong tỉnh giác, không khởi niệm nào khác. Ngài an tường nghỉ ngơi tới cuối đêm thì thức dậy tịnh tọa tiếp.

Qua đêm ấy mọi người chung quanh đều sợ lắm, họ chuẩn bị đến xem sự cố thế nào. Đến nơi, họ thấy cả một lối mòn đi xung quanh cái hang đó, chỗ gần đại y dấu nước miếng của con quỷ chảy xuống vẫn còn. Nó nghe mùi thịt thèm lắm, nhưng tiến vô không được vì có các vị thần hộ giáo, hộ giới, hộ pháp đã vây quanh bảo vệ vị tăng. Đó là công đức của một bậc tu hành thanh tịnh, giới luật trang nghiêm. Mọi người thấy vậy kính nể vô cùng. Nhìn vị tăng bình thường, không biểu hiện thần lực gì cho thiên hạ khiếp sợ, mà bên trong thể hiện tròn đầy cốt lõi của người đã an lạc.

Từ đó chúng ta mới hiểu lời nói của Bồ-tát Sĩ Đạt Đa với bọn ma vương khi ngài sắp thành đạo quả “ta có cung thiền địnhkiếm trí tuệ, biết bọn bây là không thật nên ta không sợ”. Vị tăng trong câu chuyện trên cũng thể hiện cung thiền địnhkiếm trí tuệ, thể hiện sự bình an kiên định của một người tu hành. Chúng ta không hành đạo để được thần thông mà cốt ở hạnh lực, sự nhẫn nhụctỉnh giác. Chân thật thì bất hư, chánh đạo thì không có gì hại được. Nếu tâm chúng ta vững thì cảnh duyên chung quanh không làm gì được mình. Nhiều người đổ thừa tại thế này thế kia, nhưng thực chất là tâm mình chưa yên, nên bị động bởi những thứ chung quanh, bị các pháp lôi kéo. Từ đó mà mê mờ không tự chủ được, rồi lăng xăng tạo nghiệp lẩn quẩn trong luân hồi sanh tử.

Với người hành đạo chân chính, mọi quyết định chủ yếu ở nơi mình. Các huynh đệ nắm vững như thế thì sự hóa đạo rộng rãilợi lạc rất lớn. Bây giờ chúng ta chưa sống được với tánh giác, phải làm sao? Cái khổ của người tu là khi hiểu điều gì đó mà chưa làm được. Hiểu thì có hiểu, nói cho người ta nghe được mà mình làm chưa được, nghĩ lại xấu hổ khổ tâm vô cùng. Khi thấy xấu hổ khổ tâm thì phải phấn đấu, cố gắng làm cho được điều mình hiểu. Tổ Bồ Đề Đạt Ma khi đến Trung Quốc, người ta hỏi “Thế nào là Tổ?”, ngài đáp “Hạnh giải tương ưng”, tức hành động và sự hiểu biết đi đôi với nhau. Hiểu và làm đúng tức là Tổ.

Chúng tathiền sinh phải phấn đấu tích cực, rèn luyện như thế nào để làm được điều Tổ đã dạy. Chỉ hiểu và nói thôi, không làm được chúng ta cảm thấy rất xấu hổ. Đó là vì ta yếu dở quá. Rõ ràng mọi thành tựu đều từ công phu, sự phấn đấu và quyết tâm của chúng ta, không thể trông đợi ai khác. Huynh đệ nắm vững như thế thì đường đi trước mắt mở rộng, chân trời ta đến tự tạithênh thang bởi không vướng mắc chi hết. Những vướng mắc trong lòng được đả thông thì bên ngoài bình yên. Giả dụ như sau một thời gian khoảng năm mười năm, hai mươi năm, các thiền sinh trở thành những thiền sư, phải vào chỗ ồn náo giáo hóa, chúng ta cũng sống được an lạc. Làm lợi ích cho chúng sanh, mà trong lòng nguyên vẹn nguồn an lạc, tinh thần vô ngã vị tha được thể hiện tròn đầy trong từng cử chỉ oai nghi. Được vậy thì thật là đáng kính trọng và tuyên dương

Dù ở chợ búa hay giữa chiến trận, nếu chúng ta hằng sống được với tánh giác tròn đầy, mọi sự rối rắm chết chóc sẽ không dính dáng gì tới ta. Người được như vậy đảm bảo đêm ba mươi, đối đầu với Diêm vương vững vàng tự tại. Người ta hỏi thiền sư phút chót làm gì? Phút chót tự tại ra đi. Nơi nào chúng sanh cần thì đến, chẳng ngại gian lao, chẳng từ khó nhọc. Đó là lời tuyên thệ của bậc đại trí tuệ, đại Bồ-tát. Bây giờ mình chưa tuyên thệ, nhưng chắc chắn con đường ấy ta sẽ đi và sẽ tới. Nếu chúng ta không chuẩn bị, tới lúc đó sẽ như con cua bị bỏ vô nồi nước sôi, Diêm Vương sẽ nuốt chửng mình, khỏi cần phải hỏi cung. 

Thiền tăng thì không thể quơ tay quơ chân như cua bị bỏ vô nồi nước sôi được, cho nên bây giờ chúng ta phải chuẩn bị, thể hiện hạnh an lạc trong công phu. Thiền tăng sống an vui, chết tự tại mới đúng tinh thần của nhà thiền. Điều này không phải nói để chơi, nếu anh em chưa được như vậy thì phải ráng cho được. Bởi vì dù muốn dù không, cũng sẽ đến lúc mình đối diện với Diêm vương. Tùy huynh đệ thôi, ai muốn cho quỷ sứ nó cưa thì cứ lười biếng không tu, muốn vô chảo dầu sôi thì cứ tham đắm si mê theo ngũ dục. Nên nhớ nếu ta không tỉnh sáng, không có công đức tu hành, lỡ gây nghiệp ác thì dù không muốn, quỷ sứ cũng lôi đầu mình xuống địa ngục

Nghiệp từ những vọng đọng điên đảo của chúng ta mà ra, chứ không phải từ đâu hết. Thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp điên đảo không làm chủ được, nói năng và hành động sai quấy, từ đó hình thành nên một năng lực, năng lực đó dẫn chúng ta đi. Nói dễ hiểu hơn năng lực là một thói quen. Thói quen này được lặp đi lặp lại nhiều lần, nó tạo thành lực. Năng lực này từ ba nghiệp mà thành. Khi nó đã thành rồi thì sẽ dẫn chúng ta đi vào con đường tương ứng. Ví dụ vị đó không biết hút thuốc, nhưng bạn bè rủ hút riết, họ tập hút. Lần đầu đưa thuốc vào miệng sặc và ho, nhưng lần thứ hai bớt đi, lần thứ ba nghe dễ chịu một chút, lần thứ tư kê vô miệng ngậm tự nhiên, không thấy sặc thấy ho gì cả, lại còn nghe ngon nữa. Cứ thế, một ngày hút một điếu, rồi hai điếu, ba điếu cho đến một ngày hút cả bao. Đến khi thói quen tạo thành năng lực, tức thành nghiệp rồi thì nó có sức mạnh phi thường. Bấy giờ cơn ghiền nổi lên, nó bắt hút thì phải hút, không thể cưỡng lại được. Cho nên người tu sợ nhất là nghiệp, bởi vì khi nó có năng lực rồi thì ghê gớm lắm. 

Hiện tại chúng ta chưa cảm nhận được sự an lạc như thế nào, vì mình ít khi được an lạc. Nhưng nếu chúng ta đã thâm nhập, đã thể nghiệm được rồi thì sẽ thấy an lạc trị được phiền não, có thể giúp ta đương đầu với Diêm Vương một cách tự tại. Người an lạc đi ngã nào cũng an lạc. Thiền tăng chúng ta phải đầu tư vào năng lực của trí tuệ để chiến thắng được năng lực của nghiệp. Như vậy mới đảm bảo đêm ba mươi, ta thoát khỏi quỷ dữ. Nhà thiền hay nói về đêm ba mươi sau cùng. Vào đêm này, thiền viện hay tổ chức phổ trà, các bậc tôn túc thường nhắc nhở sách tấn đại chúng nỗ lực công phu, tăng trưởng đạo hạnh, ngõ hầu khi vô thường đến, chúng ta không rơi vào các con đường tối tăm

Người xưa bảo kẻ nào gây tạo nghiệp ác nhiều thì vừa thoát thân, thấy cảnh giới chung quanh tăm tối, trên trời sấm sét, những tiếng tru tréo của các loài thú dữ, cảnh tượng khiếp đảm đến mức không thở nổi. Họ bỏ chạy đến chỗ nào thấy bụi lùm liền chui vô trốn. Vừa vô là thọ thân lông lá sừng gạc. Đó là đường đi của những người mang ác nghiệp. Trái lại những người có thiện nghiệp, tu hànhđạo hạnh, khi bỏ thân hiện hữu này tự nhiên thấy bầu trời thênh thang, gió mát, trăng trong, ánh sáng rực rỡ họ liền đến đó. Vào trong ấy rồi là đã thọ thai ở những cảnh giới an lạc

Đêm ba mươi của chúng ta như thế. Cho nên không phải đợi tới lúc đó mình mới chuẩn bị, không phải đợi tới lúc khát cháy cổ mới đào giếng, sẽ không còn kịp nữa. Phải chuẩn bị ngay bây giờ bằng sự nỗ lực tu tập từng giờ từng khắc. Nếu có ai hỏi quý vị khi xả bỏ thân tứ đại này sẽ đi đâu? Quí vị có thể nói “sẽ tự tại chọn đường mà đi”. Trả lời được như thế, đảm bảo chuyến độc hành độc bộ của quí vị hết sức an lạc thênh thang. Không nên tới lúc đó nhờ người ta hộ niệm, hay giống như con cua bị bỏ vô nồi nước sôi.

CHÁNH VĂN

Hoặc nơi chợ búa, phải khéo nương nơi bốn hạnh an lạc, đáo xứ tùy duyênthuyết pháp giáo hóa

Hãy lấy giới luật làm trước để dẫn đường, dù cùng lẫn lộn với thế tục, hòa quang mà vẫn tự tại, giữ tâm trong sạch như gìn tròng con mắt. 

GIẢNG

Đáo xứ tùy duyên là đến đâu cũng tùy duyên. Tùy duyênbất biến, tùy duyên mà vẫn tự tại, chứ không phải tùy duyênbị động.

Đây là những lời dạy chí thiết của Thiền sư Minh Chánh. Lấy giới luật làm trước để dẫn đường nghĩa là đường đi của chúng tagiới luật bảo vệ, không sợ đi lạc, không sợ bị ngoại ma uy hiếp. Dù lẫn lộn trong thế tục hòa quang nhưng mà vẫn tự tại. Hòa quang nhưng không mất mình. Chúng ta cũng như mọi người nhưng đặc biệt mình không quên tánh giác. Ngài dặn giữ tâm trong sạch như gìn tròng con mắt, câu nói này rất tột cùng. Giữ cái tỉnh sáng, cái tâm thanh tịnh như giữ tròng con mắt, không để dính bụi bặm bên ngoài. Dù loại bụi bặm nào, vàng ngọc mà đưa vô con mắt đều thành bệnh. Phiền não vọng tưởng xả bỏ đã đành, mà Bồ-đề Niết-bàn cũng phải viễn ly, vì tất cả đều là bụi. Nói trắng ra như vậy để chúng ta không bị kẹt trên đường tu. 

CHÁNH VĂN

Trong chứa chí đạo, ngoài chẳng khinh khi kẻ khác. Chí nguyện phải thân được hạt châu trên búi tóc để đại phá bốn ma. Một mai thấy suốt tâm bản lai ngộ nhập chân như tri kiến địa. 

GIẢNG

Ngài nói trong lòng chứa chí đạo, chí đạo nghĩa là gì? Như trong Tín Tâm Minh, tổ Tăng Xán nói “Chí đạo vô nan, duy hiềm giảng trạch”. Chỗ tột đạo không khó, chỉ ngại giảng trạch. Chỗ chí đạo giống như cái tâm của mình rỗng rang sáng suốt. Nó hiện bày đây thôi nhưng muốn nhận, muốn sống được với nó thì đừng ngược xuôi, đừng vướng mắc. Giảng trạch tức là tâm lăng xăng điên đảo, nó hoạt động như con khỉ, nắm đông bắt tây, toan tính việc nọ việc kia. Người tu thiền muốn được định mà giỏi toan tính quá thì khó được định lắm. Cho nên ai so đo toan tính, bén nhạy đối với tất cả các cảnh duyên, người đó khó được thiền định.

Người được thiền định là người thấu thoát, là người bất động đối với tất cả các cảnh duyên, cho nên không toan tính gì hết. Các pháp vốn như thế. Như nói cái đồng hồ đẹp, mình chỉ biết vậy thôi, chứ không tìm xem nó đẹp thế nào, của ai. Đó là sống chỗ chí đạo. Tổ thứ ba Thiền tông Trung Quốc là ngài Tăng Xán đã nói: “Chí đạo vô nan, duy hiềm giảng trạch”, nghĩa là chỗ tột của đạo không khó, chỉ sợ tâm lựa chọn phân biệt. Một câu nói này, chúng ta áp dụng được có thể thành đạo. Lời này đâu có gì cao kỳ, mà hết sức giản dị, nhưng nếu chúng ta khởi niệm lăng xăng mắc mứu thì khó. Trong kinh Lăng Nghiêm nói theo niệm là bội giác hợp trần, không theo niệm là bội trần hợp giác. 

Một niệm vừa khởi lên chúng ta bị nó dẫn tức là giảng trạch, khởi niệm tắng ái, bị hấp lực của nó dẫn đi. Ngược lại chúng ta bình thản trước tất cả mọi cảnh duyên và không theo tạp niệm loạn động thì không giảng trạch, từ đó trí tuệ Bát-nhã hiện tiền. Điều này có khi ta nói được, truyền đạt được, nhưng chưa làm được vì ta nuôi khỉ vượn nhiều quá, đầu óc toan tính lung tung, tâm chưa định, niềm tin đối với chánh pháp chưa vững. Từ đó ta sống theo vọng tưởng điên đảo, tạo nghiệp vô cùng để rồi chuốt quả khổ. Nhìn lại mình thấy vô lý quá. Cho nên ở đây thượng nhân Minh Chánh dạy chúng ta những lời rất cụ thể, nói trắng ra hết, không che dấu gì cả.

Người sống được với chí đạo, không bao giờ khinh khi kẻ khác, không thấy mình được như vầy như kia. Chí nguyện phải thân được hạt châu trên búi tóc để đại phá bốn ma, ý muốn nói chúng ta là một vị tráng sĩ xông pha chiến trận, thì phải chiến thắng ma quân, đạt được hạt châu vô giá trong búi tóc. Tức là nhận ra và hằng sống với tâm chân thật của mình. Một khi được như thế thì việc tiếp cận đại phá ma quân không còn ngán, không còn sợ nữa. Như Tướng quốc được vua ban thanh bảo kiếm, có thể dùng nó chém tội gian thần trước và tâu vua sau. Người này được quyền như vậy. Người được hạt châu cũng vậy, có một quyền năng lớn lao phi thường. Bao giờ chúng ta là vị tráng sĩ nhận được hạt châu đó, chúng ta mới có thể đại phá ma quân.

Một mai thấy suốt tâm bản lai ngộ nhập chân như tri kiến địa, thấy suốt tâm bản laingộ nhập tri kiến Phật. Tâm bản lai cũng chính là tri kiến Phật. Trong công phu hàng ngày, chúng ta tập trung để luôn tỉnh và sống được với tánh giác. Như vậy lộ trình trở về quê hay thâm nhập tri kiến Phật không có gì trở ngại nữa. Đó là phần lý giải mà ngài Minh Chánh toát yếu lại lời dạy của đức Thế Tôn trong phẩm An Lạc Hạnh.

bài kệ:

CHÁNH VĂN

Diệu Pháp Liên Hoa, đề mục trên,
Bản lai thanh tịnh, rộng trời thênh,
Tới lui hành xứ, mắt tâm sạch,
Qua lại thân gia, tránh tị hiềm,
Cũng chẳng khi người, mà tự đại,
Chỉ nên niệm Phật, một lòng bền,
Một mai đại phá ma quân trận,
Tự tín hoa sen, lúc mọc lên. 

GIẢNG

Hai câu đầu muốn nói Diệu Pháp Liên Hoa cũng chính là tâm, là tri kiến Phật, là bản lai diện mục hay bản lai thanh tịnh của chúng ta.

Tới lui hành xứ, mắt tâm sạch,

Qua lại thân gia, tránh tị hiềm,

Hai câu này răn dạy chúng ta trong mọi sinh hoạt, phải giữ tâm trong sạch, làm sao thể hiện được bản lai thanh tịnh. Chỗ qua lại đó không có những tị hiềm, không có giảng trạch. Đó là chỗ chí đạo. Chúng ta phải luôn tỉnh giác không chạy theo những huyễn duyên, không bị các hiện tượng trần cảnh kéo lôi, tức là người bội trần hợp giác, chứ không phải bội giác hợp trần.

Cũng chẳng khi người, mà tự đại,

Chỉ nên niệm Phật, một lòng bền,

Ở đây nói niệm Phật nghĩa là sống được với tâm mình. Phật chính là tâm, là giác, chứ không phải niệm Phật là chỉ niệm danh hiệu. Niệm Phật là hằng sống với tánh giác của mình.

Một mai đại phá ma quân trận,

Tự tín hoa sen, lúc mọc lên.

Được như thế chúng ta là người chiến thắng ma quân. Vào đêm ba mươi sau cùng của cuộc đời mình, chúng ta tự tại ra đi, không bị nghiệp dẫn, không hốt hoảng với tất cả các hiện tượng xung quanh. Người tu thiền phải là người làm chủ được, giải quyết việc sanh tử của mình, chứ không phải tới lúc bị nghiệp dẫn lăng xăng sợ hãi. Muốn được như vậy, ngay bây giờ huynh đệ không được chần chừ nữa, nỗ lực tinh tấn tu tập. Phấn chấn lên, chớ sanh tâm lười mỏi.

Chúng ta chưa chiến thắng được nghiệp tập, bạn hữu ta chưa chiến thắng được nghiệp tập, bây giờ mình hỗ trợ nhau để cùng chiến thắng nó. Do đó không có vấn đề tị hiềm ở đây, mà chỉ có sự thông cảm thương mến và dìu dẫn nhau đồng tu đồng tiến. Hòa thượng Tôn sư thường nhắc nhở phải sáng được việc của mình. Một thiền sư Trung Hoa nói “Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ, việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ”. Nếu như làm được việc này thì không ngán mớ hồ sơ của Diêm vương. Nếu không chuẩn bị kịp tới lúc đó chỉ còn biết méo miệng, đớ lưỡi, không nói gì được khi thấy gậy gộc, chảo dầu sôi, cưa sắt, chỉa ba, gươm đao vây quanh khiếp đảm. Bấy giờ chỉ còn có thụ hình mà thôi. Thảm thương thay!

Tóm lại, phẩm An Lạc Hạnh được toát yếu trong bốn hạnh như trên đã trình bày. Bốn hạnh này nếu chúng ta thực hiện được, đương nhiên trở thành người dũng sĩ đầy đủ sức lực, nhận được hạt châu trên búi tóc, giải quyết xong vấn đề sanh tử. Việc này mỗi người phải tự đương đầu, không ai có thể thay thế cho ai được cả. Sư phụ của chúng ta cũng không thể làm thế cho chúng ta, tất cả những vị thiện thần hộ giáo hộ giới cũng không thể thay thế chúng ta. Mỗi chúng ta phải từng bước, từng phút giây, từng giai đoạn cố gắng tôi tròn việc này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14308)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 11833)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 14064)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 13224)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 31588)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 13623)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 14775)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 12978)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13839)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 19890)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 58646)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 37257)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 24455)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 11942)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 22206)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 14415)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 29208)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14787)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 15996)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 17673)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 15398)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 18710)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 20250)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 14721)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 14202)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 13080)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 13202)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 15969)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 23383)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 22117)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 21831)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 21238)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 13840)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 14842)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 15804)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 17813)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 16868)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 15759)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 17072)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 12846)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 20151)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 17615)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 22784)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 16002)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 15402)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 13137)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 16890)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 14445)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 24970)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 16076)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12861)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 14884)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 18463)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 21142)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 13575)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 13072)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 17642)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 14509)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 20454)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 21180)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant