Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

I. Phó Chúc Lưu Thông

20 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 5903)
I. Phó Chúc Lưu Thông

PHẬT NÓI KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT
TÂM ĐỊA PHẨM LƯỢC SỚ

Dịch giả: Tỳ Kheo Ni Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải)

Phần hai
GIẢI THÍCH KINH VĂN

C. LƯU THÔNG

I. PHÓ CHÚC LƯU THÔNG

Chư Phật tử lóng nghe, 10 giới trọng và 48 giới khinh, ba đời chư Phật đã tụng, đang tụng, sẽ tụng, Ta nay cũng tụng như thế. Tất cả đại chúng các ông dù là Quốc vương, Vương tử, bá quan, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, tín nam, tín nữ, người thọ giới Bồ Tát, nên thọ trì đọc tụng giải nói, biên chép Phật tánh thường trú giới, lưu thông cho tất cả chúng sanh trong ba đời, trao truyền, thuyết hóa không dứt, được thấy ngàn Phật, được ngàn Phật trao tay, đời đời không đọa vào bát nạn tam đồ, thường được sanh vào cõi trời, cõi người.

Nay Ta ở dưới cội Bồ đề, chỉ bày sơ lược giới pháp của bảy Phật, đại chúng các ông phải nhứt tâm học Ba-la-đề-mộc-xoa, hoan hỷ phụng hành, như trong phẩm Vô Tướng Thiên Vương khuyến học, mỗi mỗi rộng nói ba ngàn vị học sĩ, khi ngồi nghe, nghe Phật tự tụng, tâm tâm đảnh thọ, hoan hỷ phụng trì.

Lúc bấy giờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói phẩm Tâm Điạ Pháp Môn, phẩm Thập Vô Tận Giới Pháp mà Phật Lô Xá Na đã diễn nói trong Thế giới Liên hoa Đài tạng xong, ngàn trăm ức Thích Ca cũng nói như thế.

Từ trong cung trời Ma Hê Thủ La, đến dưới cội Bồ đề này, có mười chỗ nói pháp. Tất cả Bồ Tát, bất khả thuyết đại chúng thọ trì, đọc tụng, giải nói nghĩa đó, cũng lại như thế. Ngàn trăm ức thế giới, thế giới Liên hoa Đài tạng, vi trần thế giới, tất cả Phật Tâm tạng, Địa tạng, Giới tạng, Vô lượng hạnh nguyện tạng, Nhân quả Phật tánh thường trụ tạng. Tất cả Phật như thế thuyết Vô lượng tất cả pháp tạng đã xong, trong ngàn trăm ức thế giới, tất cả chúng sanh thọ trì, hoan hỷ phụng hành. Nếu muốn hiểu rộng tướng tâm địa tướng, như trong phẩm Thất Hạnh Phật Hoa Quang Vương đã nói rõ.

Giải thích:

Đây là đức Như Lai Thích Ca dặn dò đại chúng Tăng tục tại tòa, khiến cho lưu thông giới pháp này. Vì 58 giới này là cội nguồn tâm địa của chư Phật, là nền tảng cội gốc để Bồ Tátchúng sanh thành Phật, nên ba đời chư Phật và Phật hiện nay đều tụng. Các ông, tất cả đại chúng trong đại hội, người đã thọ trì giới cấm của Bồ Tát, hành 5 việc:

1. Thọ trì chớ quên mất
2. Đọc tụng cho thông suốt
3. Tụng rõ khiến cho người khác, bát bộ nghe được lợi ích.
4. Hiểu rõ, tỏ ngộ nghĩa lý, diễn nói cho tất cả mọi người
5. Biên chép lưu thông để làm lợi ích tất cả.

Đại sĩ trao tâm địa giới cho chúng sanh, khi giới tử được giới rồi, lại biên chép giới kinh này đem truyền trao cho tất cả chúng sanh. Khi các chúng này được giới rồi, cũng lại biên chép thêm ra, truyền trao cho chúng sanh mãi mãi đến vị lai. Như thế ba đời lại chuyển hóa, lần lần tiếp nối nhau, như đèn sáng liên tục không tắt. Đó chính là gánh vác pháp Phật ba đời, dẫn dụ khuyến hóa tất cả, như đốt đèn vô tận. Như vậy, tất cả chúng sanh trong ba đời y vào giới này tu hành, nên được thấy ngàn Phật bổn nguyên, được Phật trao tay, xoa đầu thọ ký, từ nay về sau không đọa vào ba đường ác, bát nạn, cho đến thành Đẳng chánh giác.

Phật tánh thường trú giới, giới này là tâm địa của Xá Na. Phật tánh thường trú bất biến, bất di, một khi thọ giới này, quyết đi đến thành Phật, không đồng với giới Thanh văn chỉ tu trong một đời.

Đời đời là lìa khổ. Thường sanh là được vui. Do giới này, dứt trừ lỗi quấy của ba nghiệp thân, khẩu, ý, không đọa vào đường ác, sanh ra muôn pháp lành, nên thường sanh về cõi trời, cõi ngườiPhật tánh tâm địa đại giới này, nhân gồm thâu cả biển quả, quả xuyên suốt cả nguồn nhân, ngay phàm thành thámh, thì đâu chỉ lìa tâm ác đạo, sanh về cõi trời, người thôi sao ? Phải biết lúc Như Lai chưa xuất thế, người nước Thiên Trúc, phần nhiều tu, cầu sanh về cõi trời, Phật phương tiện tạm mượn phương thức này giáo hóa phàm nhơn sơ cơ học đạo, chưa khế hợp tâm nguyên đại giới này, để cho họ ham mộ quả lành, phước báu ở cõi trời, để thú hướng tiến tu thế thôi. Khi có tâm thú hướng rồi thì họ sanh tâm nhàm chán cảnh khổ ở ác đạo, do đó Phật vì họ nói pháp.

Nay pháp hội đầu tiên Phật thuyết pháp, nếu chỉ ngay về cực quả, e rằng họ sanh tâm nghi hoặc, gây nên nạn trở ngại, thối thất chánh giới, mất lợi ích lớn. Hoặc cho năng lực giới này không đọa ác đạo, thường sanh vào thế giancõi người, cõi trời gặp Phật, nghe pháp, mau chứng được quả vị bật thối.

Khai sơ lược, nghĩa là giới pháp của bảy Phật, không chỉ 58 giới, những giới mà nay nói, chỉ là nêu sơ lược giáo pháp của bảy Phật mà thôi.

Như chừng đầu sợi lông, là giúp cho người sơ cơ mới học dễ hiểu, để hoan hỷ phụng hành, như muốn biết sự và lý trong giới, ngay phẩm Vô Tướng Thiên Vương trong kinh này nói rõ.

Ba ngàn vị học sĩ, chưa vào ngôi Diệu giác, còn ở vị học Địa, nên gọi là học sĩ. Khi ấy đức Như Lai khuyến trăm ngàn vạn ức đại chúng, phải nhất tâm học. Ở trong pháp hội, ba ngàn vị đại Bồ Tát, nghe Phật tự tụng, nên hết lòng tôn trọng, đê đầu đảnh lễ thọ trì. Đây cũng là nêu vấn đề học ở trước để nhiếp hóa các vị sơ cơ, trăm vạn ức người mới học.

Trước nói rõ thế giới một mặt trời, một mặt trăng, một đức Thích Ca Như Lai nói Giới pháp Tâm địa Thập Vô Tận của đức Xá Na Như Lai. Sau nói rõ trong thế giới có ngàn trăm ức mặt trời, mặt trăng, ngàn trăm ức Thích Ca Như Lai đều nói Giới pháp Tâm địa Thập Vô Tận của Xá Na, nên nói cũng như thế.

Nay chỉ nêu mười giới trọng, không nói 48 giới khinh, vì 10 giới này bao gồm hết thảy các giới, huống gì 48 giới, nên nói Vô tận giới pháp.

Trước nói rõ tâm địa giới, Thập vô tận giới, đức Lô Xá Na đã nói, ngàn trăm ức Phật Thích Ca cùng đồng nói.

Nay nói rõ mười trụ xứ nói các pháp môn. Đoạn sau tổng kết ngàn trăm ức Phật Thích Ca và tất cả Chư Phật, thuyết các pháp môn cũng giống như vậy.

Thế giới thì nhiều, không thể kể hết, nên lấy vi trần để thí dụ. Một hạt vi trần dụ một thế giới, nên nói thế giới nhiều như vi trầnThế giới Liên hoa Đài tạng đầy đủ vô lượng vi trần thế giới. Như thế trăm ngàn ức thế giới, vi trần thế giới, nói chung không ngoài một thế giới Liên hoa đài tạng. Trong thế giới như thế, tất cả chư Phật đầy đủ hàm tàng tâm bình đẳng, nên đồng thuyết chư tạng. Tạng có nghĩa là bao hàm.

1. Nhứt tâm tạng, chỉ cho Nhứt Chơn Như Tâm Thể, bao hàm cả hư không, đầy đủ muôn pháp, vô lượng diệu dụng, nên gọi là Tạng.
2. Địa tạng, vì tâm thể vốn không phân biệt, bình đẳng như đất, sanh ra vô lượng công đức lành, nên gọi là Tạng.
3. Giới tạng, tâm thể vốn không, nhưng đầy đủ vô lượng giới pháp, dung nạp vô lượng biển phước, nên gọi là Tạng.
4. Hạnh nguyện tạng, tâm làm việc lành gọi là Hạnh, tâm đã nguyện khắc kỳ thủ chứng gọi là Nguyện, biển hạnh vô biên, nguyện môn vô tận nên gọi là Tạng.
5. Nhơn quả Phật tánh thường trụ tạng, mới bắt đầu phát tâm tu gọi là Nhân, cuối cùng đạt sở chứng gọi là Quả, vậy thì nhân gồm thâu cả biển quả, quả xuyên suốt cả nguồn nhân, nhân quả tương dung chứng đắc pháp thân, nên gọi là Phật tánhPháp thân vốn tịch diệt vắng lặng thường trú, không biến hoại, không dời đổi, bao gồm pháp giới, thể đồng thái hư, nên gọi là Tạng.

Tâm tạng, Điạ tạng, Giới tạng, rõ ràng chẳng phải Ba-la-đề-mộc-xoa của Tiểu thừa, mà chính là bổn nguyên tâm địa chánh pháp giới của Bồ Tát vậy.

Tất cả chư Phật, chính là ngàn trăm muôn ức chư Phật trong thế giới của Liên hoa Đài tạng. Như vậy, vô lượng chư Phật diễn nói vô lượng Nhứt thiết pháp tạng. Vậy năm tạng đây bao gồm không còn sót, mà giới tạng là quan trọng nhất trong năm tạng. Hiểu được chỗ quan trọng này, thì đầy đủ muôn hạnh, Thánh quả tròn đầy, thế nên tất cả chư Phật ba đời đồng nói, tất cả chúng sanh trong ngàn trăm ức thế giới, đều tôn kính thọ trì, hoan hỷ phụng hành.

Tướng tâm địa tướng, tâm địa vốn vô tướng, mà giới có trì có phạm, đây là tướng của Tâm địa. Tướng có tướng chung, tướng riêng, 10 giới trọng là tướng chung, 48 giới khinh là tướng riêng. Tướng chung có vô lượng, tướng riêng cũng vô cùng, lớp lớp vô tận, giống như lưới châu của trời Đế Thích. Nếu muốn mở rộng tướng sự và lý của tâm địa này, thì ngay trong phẩm Thất Hạnh của kinh này nói rõ. Nhưng phẩm này, Quốc độ ta không có.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11641)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11120)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11354)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12072)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12567)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10772)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17992)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9957)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10179)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12356)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15352)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11249)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14336)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12115)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12008)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12417)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11191)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12093)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10622)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12563)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14848)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12697)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16583)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19675)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12273)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11866)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13534)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11960)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11852)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11644)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12774)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14526)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12622)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13631)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12909)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9881)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18021)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11172)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9086)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12185)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13059)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10316)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12201)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15322)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12227)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11490)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14277)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19711)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14158)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24616)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10695)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant