Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ii. Kết Tụng Hồi Hướng Lưu Thông

20 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 5571)
Ii. Kết Tụng Hồi Hướng Lưu Thông

PHẬT NÓI KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT
TÂM ĐỊA PHẨM LƯỢC SỚ

Dịch giả: Tỳ Kheo Ni Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải)

Phần hai
GIẢI THÍCH KINH VĂN

C. LƯU THÔNG

II. KẾT TỤNG HỒI HƯỚNG LƯU THÔNG

Kệ tụng này tuy chẳng phải là Phật nói, nhưng văn nghĩa thảy đều đầy đủ, hoặc do các bậc Hiền, Thánh cõi Tây Trúc để lại, hoặc là các bậc triết nhân phương này đặt ra, nhằm tán thán sự trì giới, khuyên học, độ sanh, phát nguyện hối hướng. Như trong Tỳ Kheo Giới Bổn, đầu tiên thuật lời tán tụng, phần kế nêu bày giới tướng, phần sau kết tụng hồi hướng, mới hợp với ba lần khải thỉnh. Nay thiếu phần tán tụng đầu tiên, vì bộ kinh này chẳng đủ cả quyển, chỉ có phẩm Thượng và phẩm Hạ
.
Kệ rằng: 
Đủ thấy Nhẫn Tuệ mạnh
Nay trì pháp như thế
Dù chưa thành Phật đạo
Được năm lợi ích lớn.

Giải thích:

Mạnh ở đây là kiên cố, bền vững. Nhẫn chính là Sanh pháp nhẫn, Huệ là trí tuệ Bát nhã. Do sanh ra pháp nhẫn nên tâm chẳng động, dùng trí tuệ Bát nhã mà dứt trừ mê hoặc, chứng đắc chơn thật đế lý, để biết tâm địa đại giới này. Bởi vậy, chẳng phải ngu phu, Tiểu thừa trí tuệ nông cạn có thể kham thọ nỗi, mà người trí thấu đạt, mới có thể thọ trì. Dù chưa thành Phật, nhưng người hay thọ trì giới pháp này thì nhất định sẽ thành Phật ở tương lai.

Nay tuy chưa thành Phật, nhưng trong thời gian đó, đời đời trước hết được năm thứ phước đức lợi ích của Phật.

 Một là Phật mười phương
Thương xót thường thủ hộ
Hai là lúc mệnh chung
Chánh kiến tâm hoan hỷ
Ba dù sanh ở đâu
Thường làm bạn Bồ Tát
Bốn là muôn công đức
Nhờ giới đều thành tựu
Năm từ nay về sau
Phước tuệ tánh giới đầy
Mới là con chư Phật.

Giải thích:

1. Do giữ gìn kiên cố giới pháp tâm địa của chư Phật, nên được chư Phật thương tưởng, mẫn niệm thường được thủ hộ, khiến cho họ an ổn tu hành đạo nghiệp, thành tựu tự hành, khiến cho không thối thất và không khiến cho ma chướng có dịp quấy phá. Nên kinh Bát Nhã ghi: “Như Lai khéo hộ niệm chư Bồ Tát.”

2. Do tự mình đầy đủ chánh kiến, biết nhân quả thiện ác rõ ràng, nếu hủy giới cấm phải sa đọa vào đường ác, nên luôn sanh tâm lo sợ, trì giới thì được sanh về cõi Phật, nên tâm lúc nào cũng hoan hỷTỳ Kheo Giới Bổn ghi: “Như người tự soi gương đẹp xấu sanh vui buồn” ấy vậy.

3. Nghĩa là giới pháp này ba đời Bồ Tát cung kính tôn trọng mến mộ giữ gìn bảo hộ, đồng học, đồng thọ trì, đời đời kiếp kiếp bất cứ ở đâu thường được làm bậc Tam Hiền, Thập Thánh, được chư đại Bồ Tát dắt dẫn, cùng làm bạn hữu.

4. Nghĩa là thực hành pháp lục độ vạn hạnh, được vô lượng công đức, nếu có thể hành trì một giới trong giới phẩm này, thì các công đức khác thảy đều thành tựu.

5. Nghĩa là giới này là bổn nguyên giới của Phật tánh, tánh tự vốn thiện, thân nghiệp, khẩu nghiệp thanh tịnh, tự nhiên dứt ác, tự nhiên sanh thiện, dứt ác là tuệ, sanh thiện là phước, đời nay kiên trì giới cấm, thì phước đức trí tuệ tự nhiên tăng trưởng, đời sau phước trí đầy đủ (phước trí nhị nghiêm) thành tựu Phật quả, với hiệu là Lưỡng Túc Tôn. Tất cả Phật tử từ giới này mà sanh, hiện tại hay thọ trì cấm giới, thì phước tuệ dần dần đầy đủ, đó mới là Phật tử chơn chánh, tiếp nối quả Phật ở tương lai.

Người trí khéo nghĩ lường
Kẻ trước tuớng chấp ngã
Không thể được pháp này
Người đốt thân thủ chứng (Nhị thừa )
Cũng không gieo giống được
Muốn nảy mầm Bồ đề
Trí tuệ soi thế gian
Phải nên quan sát kỹ
Thật tướng của các pháp
Không sanh cũng không diệt
Không Thuờng cũng không Đoạn
Chẳng đồng cũng chẳng khác
Chẳng đến cũng chẳng đi
Trong thể nhứt tâm ấy
Siêng tu tập trang nghiêm
Điều Bồ Tát phải làm
tuần tự học tập
Dù Học hay Vô học
Chớ móng tưởng phân biệt
Đấy là Đệ nhất đạo
Cũng gọi pháp Đại thừa
Hết thảy lỗi hý luận
Đều từ đây dứt sạch
Vô thượng trí của Phật
Đều do đây mà thành.

Giải thích:

Quyết định liễu tri gọi là Trí, tức là dùng trí tuệ Bát nhã quán sát, tư duy xét kỹ, biết rõ ngoại đạo phàm phu mê mất chơn tâm bản tánh, lầm chấp thần ngã, vọng chấp tứ đại làm tướng của mình, lục trần duyên ảnh làm tâm của mình, nên không phát sanh tâm địa giới pháp này.

Người đốt thân thủ chứng, hàng Nhị thừa đốt thân diệt trí, thủ chứng Niết bàn Thiên không, nên không gieo hạt giống Bồ đề. Nếu muốn tăng trưởng mầm đạo Bồ đề, tương lai thành chánh giác, phải dùng mặt trời trí tuệ chiếu phá thế gian, phá nhà si ám phiền não của chúng sanh, ngay trong lúc này, dùng trí tuệ Bát nhã quán chiếu thật tướng chân thật của tất cả pháp. Tất cả các pháp đều từ nhơn duyên sanh, duyên sanh thì không có tự tánh, ngay nơi thể tức Không. Không chính là Chân khôngChân không thì vô tướng, nên gọi là Thật tướng, chính là tâm thể bổn nguyên. Chân không thật tướng, không thuộc về thân tâm hữu vi, nên chẳng sanh chẳng diệt, không thuộc về Nhị biên, nên không có Đoạn, Thường, không rơi trong suy lường, nên chẳng phải một chẳng phải khác, vốn lìa động tĩnh, nên không có đến đi. Như vậy, các pháp chỉnhứt tâmBồ Tát muốn chứng đắc Tâm địa bản nguyên trang nghiêm này, phải từ tâm khởi dụng, dùng trí phương tiện chiếu rõ cảnh giới của tâm, cảnh giới tức là Thật tướng, nên nói vắng lặngquán sát.

Điều phải làm, nghĩa là Bồ Tát nên thứ lớp tập học giới, định, tuệ và tấn tu lục độ vạn hạnhKhông giới nào mà không trì, không Thiền nào mà không tu, không có chúng sanh nào mà không độ. Đó gọi là: “Trong cửa ngõ muôn hạnh, chẳng bỏ pháp nào cả” nên gọi là Học. Quán sát một niệm không sanh, trước và sau đều dứt, vạn pháp đều bặt. Đó gọi là: “Trên đầu cây kim, chẳng lập mảy trần” nên gọi là Vô học.

Nếu khởi niệm phân biệt, chính là tâm thức hữu vi, chẳng phải trí tuệ Bát nhã, tức không thể nhập Đệ nhất Trung đạo được.

Ma Ha Diễn, Trung Hoa dịch là Đại thừa, móng khởi niệm phân biệt tức là Có và Không của phàm phu, là Thiên kiến của Nhị thừa hữu vi, không phải Đại thừa Trung đạo, nếu thú nhập vào lý trung đạo, thì ác kiến hý luận, hoặc có, hoặc không, hoặc chẳng phải có, chẳng phải không, theo đây mà diệt.

Tát Bà Nhã, Trung Hoa dịch là Nhứt thiết trí tướng. Trong nhơn thì gọi là Bát mhã, tại quả thì gọi là Tát bà nhã, tức là Nhứt thiết trí của chư Phật. Chủng trí của chư Phật, đều do không khởi phân bỉệt, diệt các hý luận, vào thẳng lý Trung đạo, rồi lại lưu xuất ra diệu dụng.

 Vì thế các Phật tử
 Phải phát tâm dõng mãnh
 Nghiêm trì giới của Phật
 Tròn sáng như minh châu
 Chư Bồ Tát quá khứ
 Đã từng học giới này
 Hàng vị lai sẽ học
 Người hiện tại đương học
 Đây là đường Phật đi
 Là điều Phật khen ngợi.

Giải thích:

Vì thế, nghĩa là thừa văn trước, khởi lời sau, muốn chứng đắc Tát bà nhã của chư Phật thì phải phát tâm dõng mãnh, tinh tấn tu tập, giữ gìn kiên trì tịnh giới của chư Phật như giữ hạt minh châu. Nhưng thể của minh châu vốn tự thanh tịnh, sáng suốt, tròn đầy, bậc Đại sĩ trì giới nghiêm mật không để mảy may nhiễm ô nên Tịnh, không khuyết phạm nên Viên, si ám tối tâm phá hết nên Minh, đó là khéo hộ niệm hành trì.

Giới này Bồ Tát ba đời cùng hành trìchứng quả Đại Bồ đề, mười phương chư Phật đã cùng hành trì, để thú hướng Niết bàn. Phật là Thánh trong Thánh, nên xưng Thánh chủ, Phật tử nên dõng mãnh tu hành như thế, hộ trì tịnh giới, nên được tất cả chư Phật đồng khen ngợi.

 Ta đã giảng giới xong
 Hồi hướng cho chúng sanh
 Đồng đến Nhứt thiết trí
 Nguyện ai nghe pháp này
 Đều được thành Phật đạo.

Giải thích:

Ta là người sáng tác bài tụng tự xưng, nay người tụng giới cũng có thể tự xưng như vậy.

Tùy là không trái với văn kinh, Thuận là không trái với ý chỉ của giới, nghĩa là ta nay nói Tâm địa đại giới này, là vô lượng phước đức tích tụ, tâm không tham tiếc đem tất cả hồi hướng cho chúng sanh thảy đồng thú hướng Nhứt thiết trí của Phật, không hướng đến tiểu quả nhân thiên Nhị thừa. Lại nguyện, ai được nghe giới pháp này, tất cả đều thành vô thượng đạo. Bởi từ giới này, một chữ, một lời đều từ Lô Xá Na tâm địa lưu xuất. Đây là bổn nguyên chư Phật, là cội gốc của Bồ đề, nên một khi ai được nghe giới pháp này rồi là hột giống thành Phật, lẽ đâu không thành Đẳng chánh giác ư?

Nhưng căn cơ có lợi, có độn, người tu có người tinh tấn, có người giải đãi, nên thành ra có mau có chậm, nếu được một niệm tương ứng, niệm trước không sanh, niệm sau đâu có mà diệt, chúng sanh và Phật không hai, xưa nay hợp nhứt, lẽ đâu lại có chậm có mau ư ?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12563)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10480)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12427)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11730)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28893)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12112)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13084)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11510)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12440)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17537)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53215)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35589)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21579)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10745)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19369)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12515)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26196)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13419)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14474)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16158)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13811)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16941)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17720)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13239)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12608)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11690)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11701)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14598)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20611)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19153)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19699)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18800)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12260)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12410)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13960)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15162)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15125)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14056)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15599)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11484)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17294)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15079)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20318)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14690)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13934)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11795)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15141)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13064)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22976)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14618)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11743)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13239)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16965)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18416)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11999)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11572)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15932)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12962)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 19000)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18541)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant