KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương III:
CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.1.1.7. TỰ TÁN HỦY THA GIỚI
(Giới tự khen
mình chê người)
Kinh
văn:
1. Phiên
âm:
Từ câu “Nhược
Phật tử tự tán hủy tha...” cho đến “thị Bồ Tát Ba La Di tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu như Phật
tử tự khen mình, chê người, cũng như bảo người khác khen ngợi mình, chê người;
nhân chê người, duyên chê người, cách thứ chê người, nghiệp chê người. Là Phật tử
lẽ ra phải thay thế chịu những sự khinh chê khổ nhục cho tất cả chúng sanh, bản
thân nhận lấy những điều xấu, nhường cho người việc tốt. Nếu Phật tử tự phô
trương tài đức của mình, mà dìm che điều hay tốt của người, làm cho người bị
khinh chê, Phật tử này phạm Bồ Tát Ba La Di tội.
Lời giảng:
Từ đây trở
xuống, bốn trọng giới sắp giảng là bốn pháp Tha Thắng Xứ ở trong Du Già Bồ Tát
Giới Bổn. Giờ đây, trước nhất xin giảng về giới tự khen mình chê người.
Tự khen mình
chính là tán dương công đức của mình, đem các thứ đặc trường (sở trường đặc
sắc) của mình sẵn có, cực lực tuyên dương ra bên ngoài cho mọi người biết mình
là người giữ giới hạnh bậc nhất, thuyết pháp không ai bì v.v... Để các thứ danh
dự, lợi dưỡng ồ ạt tuôn về mình, sẽ được các thiện nam tín nữ tôn kính, tài lợi
phong phú, thọ dụng không cùng. Như vậy, tự khen mình hoàn toàn xuất phát từ
nơi tâm niệm tham cầu danh dự, lợi dưỡng mà ra.
Chê người là chê
bai tội ác của người khác, moi móc ra tất cả những khuyết điểm như thế, làm cho
người bị chê bai, mất cả danh dự, lợi dưỡng, không còn được ai tôn kính và đến
cúng dường. Do đó, chúng ta thấy rõ sự chê bai người hoàn toàn phát xuất từ tâm
niệm sân hận, thấy người được nhiều lợi dưỡng mà ra.
Tự tán dương
công đức của mình, mục đích là phô bày tội lỗi của người khác. Chê bai hủy nhục
người mục đích là phô bày công đức của chính mình. Cho nên tự khen mình, chê
người, mục đích duy nhất là mong mọi sự cung kính, lợi dưỡng đều về hết nơi
mình. Dụng tâm này thật là một tội ác rất lớn nên thuộc về căn bổn trọng tội. Nếu
chỉ phô trương tài đức của mình mà không chê bai tội lỗi của người, hoặc chỉ
chê bai người, không tán dương mình thì chỉ phạm tội khinh cấu.
Có thể nói, tâm
lý khen mình chê người mọi người đều có. Cho nên ở mọi nơi, mỗi khi có dịp nghe
đến, chúng ta đều thấy rằng, nếu đó không phải là những lời tán dương cá nhân
mình thì cũng là những luận điệu phỉ báng người, rất ít khi được nghe ai nói
chỗ không đúng của chính họ mà tán dương mỹ đức của người.
Vì thế, làm
người sống ở thế gian, xưa nay không dễ gì tạo gây được một bầu không khí hòa
vui giữa người và người. Dù đôi khi, chúng ta cũng được nghe vài lời tán thán
mỹ đức của người khác, nhưng cũng không phải hoàn toàn phát xuất nơi tâm ý chân
thành.
Người người đều
tự cho mình là đúng, không biết rằng tự mình cũng còn nhiều chỗ không đúng, và
không chịu thừa nhận thế thôi. Ngược lại, họ thường cho người khác là sai, mà
không biết rằng người khác cũng có chỗ rất đúng. Vì thế, nếu bạn hủy báng tôi,
tôi nói xấu bạn, ai cũng không muốn tuyên nói chuyện tốt của người, nên trên
đời này nhiều vấn đề phức tạp thường xảy ra vô cùng vô tận.
Nếu con người
thường tự phản tỉnh từng giờ, từng phút, biết có rất nhiều chỗ sai lầm, và
người khác có nhiều điều siêu thắng hơn mình thì tự nhiên, không bao giờ có
hành động khen mình, chê người. Nhất là một Bồ Tát hành giả, lại cần phải luôn
luôn phô bày những tội lỗi của chính mình, tuyệt đối không nên có tâm niệm che
giấu tội lỗi của mình.
Nếu che giấu tội
lỗi thì những tội lỗi ấy chẳng những không được tiêu diệt, trái lại còn tăng
trưởng lên mãi, cho đến lúc quá nhiều, bấy giờ muốn diệt trừ chúng thì quả thật
hết sức khó khăn. Chẳng những không nên che giấu tội lỗi của mình mà nếu có
công đức chi, cũng không nên khởi tâm khoe khoang với mọi người. Nếu khoe
khoang công đức của mình thì các công đức chẳng những không được tăng trưởng, trái
lại, do đây mà bị hao tổn. Khi công đức đã bị hao tổn và hết sạch, bấy giờ, dù
bạn có muốn khoe khoang cũng không thể được.
Vì cầu danh lợi
bằng cách tự tán dương mình chưa chắc đã được. Phải biết rằng, bạn có công đức
hay không, những người chung quanh bạn thấy rất rõ ràng. Nếu bạn thật sự có
công đức, tự nhiên sẽ được mọi người tán dương, không cần bạn tự khen và sẽ
được hiệu quả cùng ảnh hưởng rất lớn. Thế nên, nếu mình thực sự có tài đức, cần
chi tự tán dương?
Nếu mình thực sự
không tài đức, chỉ là tự thổi kèn, đánh trống, tự khen mình rồi tự vỗ tay.
Những điều này chỉ khiến cho người khác ẩu tâm khó chịu, và chẳng những họ không
sanh khởi hảo cảm lại còn mất hẳn tín tâm đối với bạn, vì họ biết bạn chỉ là
người tự đề cao mình, và không có một mảy may thực đức. Như vậy thì có gì đáng để
họ cung kính, tôn trọng? Hóa ra, muốn được lợi ích mà trái lại bị tổn hại.
Chính mình thật sự chưa không có tài đức thì không nên tự khen; nhưng buồn thay
trên đời này, nơi nào đa số cũng đều là những người tự khen mình.
Tật đố người,
phỉ báng người chưa chắc làm cho người bị thiệt hại. Chúng ta nên biết, con
người sanh tồn trên cõi thế gian này đứng vững được hay không, không phải do
nơi sự khen chê của người khác, mà chính là tự nơi họ có đủ điều kiện đứng vững
hay không. Nếu người ấy có đủ điều kiện đứng vững trong xã hội thì bất cứ người
nào chê bai, phỉ báng họ cũng không gây được ảnh hưởng gì và còn có tác dụng
ngược lại.
Cho nên thánh
Gandhi nói: “Bất cứ người nào cũng không thể làm tổn hại được bạn. Chỉ có bạn
tự làm tổn hại bạn mà thôi”.
Vì thế, nếu cho
rằng chê bai để đả đảo họ, đó là quan niệm sai lầm tuyệt đối, đôi khi lại còn
có tác dụng ngược lại.
Tại sao?
Vì nếu người
khác biết được bạn có tâm niệm “đố hiền hại năng” (ganh ghét người hiền, hãm
hại kẻ tài năng), họ sẽ mất hẳn tín tâm đối với bạn, ly khai bạn và không giờ
tiếp thọ sự cảm hóa của bạn.
Bồ Tát hóa độ
chúng sanh phải làm gương mẫu cho chúng sanh, nên nhất cử, nhất động, một lời
nói, một việc làm phải hợp với phép tắc để cho chúng sanh bắt chước noi theo. Nếu
Bồ Tát tự khen mình chê người khiến bắt chước, học tập theo gương Bồ Tát, tự
tán dương mình, rồi rao nói mình là một bậc vĩ nhân. Dưới gầm trời này chỉ có
mình là nhân vật không thể tưởng, người khác không ai có thể so sánh với mình,
Thậm chí còn cho mọi người đều tầm thường, không có gì đáng nói. Rồi cực lực
tìm cách chê bai, hủy nhục người, nói họ việc này không đúng, việc kia là
sai...
Nói tóm lại,
trên thế gian này chỉ có một mình ta là đúng, tất cả mọi người đều sai. Chúng
sanh sẽ bắt chước thói quen khen mình chê người như vậy thì bao nhiêu thiện
pháp công đức, mỗi ngày sẽ bị tổn giảm, ác pháp tội lỗi ngày một gia tăng. Bồ
Tát dẫn dắt chúng sanh như vậy, thử hỏi, tội ác của bạn lớn biết dường nào?!
Tâm lý tội lỗi
tự khen mình, chê người này xưa nay đều có; nhưng thời cận đại này lại càng
thịnh hành hơn. Chẳng những mọi người thông thường đã như vậy, mà ngay cả những
người tu học trong Phật pháp cũng thế.
Như có người học
giáo lý, hơi hiểu biết chút ít Phật pháp, nếu động đến liền cho người tham
thiền là ám chứng, hoặc nói những người này là tu mù, luyện quáng. Người tham
thiền mới thực hành công phu tĩnh tọa được ít nhiều đôi chút, vội cho mình là
người “chân tu thực học”, lại chê bai, hủy báng những người học giáo lý là
không có tu trì, hoặc nói họ là kẻ chuyên đếm của báu cho người v.v... Những
hạng người tự cho mình là phải, chê người khác là trái như thế thì đâu xứng
đáng với tư cách một vị có bổn phận duy trì Phật pháp?
Đối với hai hạng
người nói trên, trong kinh nếu không bài xích cho là giặc, đem Phật pháp xuất
mại (bán rao), thì cũng quở trách là bè đảng của ma vương, phá hoại Phật
pháp.
Vì thế, đệ tử
Phật, nhất là hành giả Bồ Tát, phải tán tụng, tuyên dương công đức của người
càng nhiều càng tốt. Không nên một mặt tự thổi kèn đánh trống, tán dương rao
nói chỗ hay, tốt của mình; một mặt moi móc kiếm tìm lỗi lầm của người khác (hết
phần giảng ý nghĩa tên của giới).
Đức Phật đối với
đại chúng dạy tiếp rằng: “Nếu Phật tử là một vị Bồ Tát, ở trong quá trình giáo
hóa chúng sanh, thường luôn tự khen mình chê người, hoàn toàn không đúng với tư
cách của hành giả Bồ Tát”.
Tự bản thân mình
không có công đức chi mà lại đi phô bày công đức của chính mình gọi là “tự
tán”. Người khác thật có đạo đức cao siêu mà lại hủy nhục gọi là “hủy tha”. Bồ
Tát lấy việc lợi tha làm bổn phận, đúng lý phải tận lực tuyên dương tài đức của
người, không nên tự khen mình chê người. Suy cùng nguyên nhân tự nâng cao mình,
đè bẹp người cốt để cầu lợi dưỡng và sự cung kính. Bảo người làm như vậy đều do
nơi tham tâm hoặc sân tâm. Trong đó, đương nhiên có si tâm, nhưng động cơ chính
yếu là tham tâm.
Trong Du Già Bồ
Tát Giới Bổn có nói: “Vì muốn tham cầu lợi dưỡng, cung kính, mà tự khen mình
chê người, ấy gọi là pháp Tha Thắng Xứ thứ nhất”. Cho nên tham tâm là một tội đứng
đầu trong các tội.
Trong Luật dạy
chê người có ba thứ:
1. Đối trước mặt
chê bai, mạ nhục; như nói: “Mầy là hạng người sanh trong gia đình Chiên Đà La,
mầy không phải là người tốt...”
2. Dùng tỷ dụ để
hủy báng, mạ nhục, như nói: “Mầy sẽ giống với kẻ sanh trong nhà Chiên Đà La
v.v...”
3. Tự so sánh mà
hủy báng, mạ nhục; như nói: “Ta đây không phải thuộc vào giòng Chiên Đà La, ta
đây không giống như mầy, là một người không ai đếm xỉa đến...” v.v...
Vì vậy, phàm
những lời nói khiến kẻ đối diện không còn chỗ đứng, không có cơ hội ngóc đầu
lên, làm cho mọi người xa lánh, không muốn gần gũi với kẻ ấy, làm cho họ bị cô
lập, muốn làm việc gì đều không được ai hưởng ứng. Những hành động ấy đều thuộc
về chê bai người. Loại dụng tâm này rất ác độc nên tội lỗi cũng vô lượng vô
biên.
Tự khen mình chê
người đối với đối tượng nào mới kết thành tội?
Có hai lối giải
thích:
1. Đối với những
người thường chưa thọ giới Bồ Tát, tự khen mình chê người thì phạm căn bổn
trọng tội. Với Phật tử đã thọ giới, tự khen mình chê người chỉ phạm tội khinh
cấu.
2. Bất luật đối
với hành giả đồng đạo, hoặc người thông thường không ở trong Phật pháp, nếu tự
khen mình chê người chỉ cần phát xuất từ tâm mong cầu danh dự, lợi dưỡng đều
phạm căn bổn trọng tội, không được nói là khinh cấu.
Hai lối
giải thích trên đều rất thông suốt, nhưng xét kỹ, thuyết thứ hai có phần thấu
đáo hơn. Vì khen mình, chê người mục đích chính là để mong cầu lợi dưỡng, cung
kính nên tội này rất nặng.
Chúng ta nên
biết, đối với lợi dưỡng không nên cho là quý tốt. Nó thật sự là kẻ đại tặc phá
hoại công đức. Như sấm chớp, mưa đá làm thương hại ngũ cốc, hoa màu, không thâu
hoạch được gì. Cũng vậy, danh dự, lợi dưỡng phá hoại mầm công đức không thể
tăng trưởng được. Vì thế, bất luận ở trường hợp nào, có liên quan đến danh dự,
lợi dưỡng đều không nên mong cầu và gần gũi.
Trong kinh, Đức
Phật từng dạy chúng ta như vầy: “Người vào rừng chiên đàn, hãy nhặt lấy gỗ
chiên đàn, không nên lấy lá chiên đàn. Nếu chỉ lấy lá mà không lấy gỗ, người ấy
đã tự cô phụ công phu vào rừng chiên đàn của mình. Cũng thế, hành giả đi vào
Phật pháp phải cầu cho kỳ được sự an vui Niết Bàn, không nên mong cầu danh lợi,
cúng dường. Nếu không mong cầu sự an lạc Niết Bàn, trở lại cầu danh lợi, cúng
dường, kẻ ấy đã tự dối gạt mình. Chhẳng khác nào người vào núi báu, lại trở về
với hai bàn tay không, lại còn thiêu đốt tất cả thiện căn ở đời hiện tại, và
chắc chắn bị đọa địa ngục nơi đời vị lai”.
Thế thì thử hỏi
lợi dưỡng có gì tốt đẹp? Tại sao chúng ta phải miệt mài theo đuổi mong cầu? Và
cần chi phải vì lợi dưỡng mà làm việc khen mình, chê người?
Vì thế, đặc biệt
nếu một hành giả Bồ Tát tự phô trương công đức của mình, mà dìm che công đức
của người, tất nhiên sẽ gây bất lợi cho người, mà ngay cả bản thân mình cũng
chẳng được đẹp đẽ chi. Cho nên Đức Phật đặc biệt chế định lỗi khen mình, chê
người thành căn bổn trọng tội.
Chẳng những không
được chính miệng mình tự khen mình, chê người mà bảo kẻ khác tự khen mình, chê
người cũng không được. Việc này chia làm hai loại:
1. Bảo người
trước mặt mình tán thán công đức của chính mình và chê bai tội lỗi của
người.
2. Bảo người
trước mặt mình tán thán công đức của chính họ và hủy báng tội lỗi của
người.
Tán thán, dù là
tự tán hay bảo người tán thán, tuy bất đồng, nhưng tự khen mình, chê người
trong bất cứ trường hợp nào, trong hai loại trên, chủ yếu là người lãnh thọ lời
sai bảo và hoàn thành việc khen mình, chê người thì người sai bảo phải lãnh lấy
căn bổn trọng tội.
Tại sao tự miệng
mình không khen mình, chê người, chỉ bảo người thực hiện lại bị trọng tội như
thế?
Do vì người mà
bạn sai bảo kia, vốn không khởi tâm niệm khen mình, chê người, nhưng vì bạn xúi
bảo họ hành động, nên bạn không thể viện một lý do nào để từ chối việc lãnh trách
nhiệm ấy.
Kết thành tội
trọng khen mình, chê người cũng phải hội đủ bốn điều kiện: nhân, duyên, pháp,
nghiệp; phân biệt sơ lược như sau:
1. Hủy tha nhân
(nhân chê người): do phiền não tham lam sẵn có trong tạng thức phát động, đầu
tiên sanh khởi một niệm tự khen mình, chê người nên gọi là nhân chê
người.
2. Hủy tha duyên
(duyên chê người): Tâm khen mình, chê người tương tục mãi, không gián đoạn, mục
đích là hoàn thành việc mong cầu danh lợi, gọi là duyên chê người.
3. Hủy tha pháp
(cách thức chê người): dùng những phương tiện khéo léo để thành tựu việc tự tán
dương mình và lăng nhục người, gọi là cách thức chê người.
4. Hủy tha
nghiệp (nghiệp chê người): ba việc trên hòa hợp, khiến người trước mặt lãnh
hội, hoàn thành việc chê người, kết thành nghiệp chê người.
Một điểm cần lưu
ý là giới thứ bảy, gọi là giới “tự khen mình, chê người” nhưng tại sao ở đây,
kinh văn chỉ nói chê người mà không nêu tự khen mình cho đầy đủ?
Vì tự khen mục
đích chính là chê người, chỉ cần đạt đến mục đích chê người, tự nhiên có việc
tự khen trong đó; nên kinh văn không cần nêu ra một cách rõ ràng mà chỉ cần nói
là nhân chê người, duyên chê người v.v...
Nhưng một vị Bồ
Tát chân chánh, đúng lý phải thay thế chịu những sự khinh chê, hủy nhục cho tất
cả chúng sanh, nghĩa là vị Bồ Tát đối với những chúng sanh vô tội, hẳn nhiên không
nên hủy báng; mà ngay cả đến những chúng sanh tạo nhiều tội lỗi, nếu có người
muốn hủy báng chúng sanh ấy, Bồ Tát cũng phải đem thân mình ra thay thế, nhận
chịu sự hủy nhục ấy cho chúng sanh. Bồ Tát đối với kẻ hủy nhục chúng sanh kia
nói rằng: “Tội lỗi này không phải của người ấy, mà chính là của tôi. Nếu bạn
muốn hủy nhục thì hãy hủy nhục tôi đây, không nên hủy báng người ấy”.
Vì vậy, Bồ Tát
phát đại nguyện vô thượng Bồ Đề, nguyện ở trong sanh tử lãnh thọ vô lượng thống
khổ, làm lợi ích cho hữu tình. Nên đem tất cả những việc đáng ghét, đáng chê
nhận về mình, còn tất cả những việc vừa lòng, xứng ý đều nhường cho kẻ
khác.
Việc tốt nhường
cho người, chứng tỏ không phải tự khen ngợi mình, mà trái lại là khen ngợi
người khác. Việc xấu đem về phần mình, biểu thị không phải chê bai người, mà là
tự chê bai mình. Nếu không phải là Bồ Tát thì không bao giờ hành động được như
vậy.
Ở đây có người
hỏi rằng: Bản thân của Bồ Tát quả thật không có việc xấu, chúng sanh vốn thật
không có việc tốt, làm sao có thể lấy việc ác về cho mình, nhường việc tốt cho
người?
Cổ đức có hai
lối giải thích như sau:
1. Như có người
vô duyên cớ đến hủy nhục Bồ Tát; bấy giờ vị Bồ Tát suy nghĩ như vầy: Dụ như
người bắn tên, có đích mới có chỗ bắn trúng. Không đích thì không chỗ bắn
trúng.
- Chúng sanh hủy
nhục mình cũng thế. Do mình có sanh mạng nhục thể này, chúng sanh đối với mình
mới sanh ác niệm hủy nhục. Nếu mình không có sanh mạng nhục thể này, chúng sanh
nương vào đâu để sanh ác niệm hủy nhục mình? Thế thì nguyên nhân chúng sanh
khởi ác niệm, chính là do mình có sanh mạng nhục thể này.
Như vậy, tội ác
chính do ở nơi mình, chớ không phải ở nơi chúng sanh, cho nên phải quy việc xấu
về cho mình, không nên quy cho chúng sanh.
Bồ Tát lại còn
suy tư như vầy: ta phải làm thế nào để tu giới, để phòng hộ thân, khẩu, nghiệp?
Nếu không phải nhờ nơi chúng sanh hủy báng ta hay sao? Nếu không có chúng sanh
hủy báng thì ta nương vào đâu để trì giới mà thành tựu thiện pháp? Thế thì
thiện pháp trì giới của ta được sanh khởi hoàn toàn nhờ nơi chúng sanh. Đã nhờ
nơi chúng sanh mà sanh được thiện pháp công đức thì phải đem việc tốt nhường
cho chúng sanh, không nên nhận về phần mình.
2. Bồ Tát suy
nghĩ như vầy: Thông thường cho rằng chúng sanh làm việc ác đối với ta, đấy chỉ
là do ngã kiến của ta nghĩ như vậy. Nếu nói về đạo lý chân thật (chỉ cho tâm
thể bình đẳng), chúng sanh với ta đều đồng nhất thể. Vậy thì có ai làm việc ác
đối với ta? Bồ Tát phải quán sát theo chân lý như vậy, không nên tùy theo vọng
kiến của mình. Khi suy tư như vậy tự nhiên nhận việc xấu về mình, nhường việc
tốt cho người.
Lại nữa, trong
lúc Bồ Tát phát Bồ Tát tâm, chính là đã quyết định phải làm thế nào khiến chúng
sanh xa lìa tất cả tội ác. Hiện tại chúng sanh đối với mình làm những việc tội ác,
không phải lỗi của chúng sanh, mà chính là do mình không tròn trách nhiệm, nên
phải nhận lỗi về mình, tự trách mình và nhìn nhận tội lỗi ấy của chính mình,
không nên đổ cho chúng sanh.
Lại nữa, Bồ Tát
trong khi phát Bồ Đề tâm, chính là đã quyết định phải vì chúng sanh tu tập các
thiện căn. Do đó, sở dĩ mình được tu tập lục độ vạn hạnh ở hiện tại, là hoàn
toàn do nơi chúng sanh cung cấp cơ hội cho mình. Nếu không có chúng sanh thì
mình phải làm thế nào tu tập thành tựu được những thiện căn như vậy? Thế thì
bao nhiêu thiện căn xưa kia đều thuộc về chúng sanh, tại sao lại giành về phần
mình? Suy nghĩ như thế, tự nhiên sẽ nhận việc xấu về mình, nhường việc tốt cho
người.
Đệ tử của đức
Khổng Tử là thầy Tử Cống, bình nhật ưa so sánh chỗ sở trường, sở đoản của
người. Một hôm, đức Khổng Tử dạy rằng:
- Ông thật là
điên đảo, dám đi nghị luận chuyện người, tự cho mình thật là người rất tốt. Đối
với bản thân mình, chỉ nên nghĩ lo cho mình tránh lầm lỗi, không có công phu
rảnh rỗi đâu để bàn luận chuyện người.
Lại dạy thêm
rằng:
- Người trên thế
gian này, chỉ cần một lời nói mà có thể tu thân hạnh. Lời ấy là gì? Chính là
một chữ Thứ. Chữ Thứ là gì? Là đối với tất cả việc tự mình không muốn thì không
nên đem đổ cho người.
Cũng thế, nếu
bạn không muốn người khác hủy báng bạn, thì bạn không nên hủy báng người.
Như trên đã nói,
Bồ Tát đáng lẽ phải thay thế cho tất cả chúng sanh lãnh thọ sự hủy nhục. Nếu
không thực hành như thế, trái lại tự phô trương tài đức của mình mà dìm che
điều hay tốt của người, làm cho người bị khinh chê, đến nỗi bị hủy nhục một
cách không duyên cớ. Thẳng thắn mà nói: Phật tử này phạm Bồ Tát Ba La Di
tội.
Tại sao thế?
Phải biết rằng:
một vị Bồ Tát, đặc biệt với công đức của tự mình, phải giữ gìn giấu kín, không
được đem ra tuyên dương cho người nghe. Những thiện hạnh của người khác phải
cực lực phu dương, không được che giấu mới là hợp với đạo lý.
Hiện tại nếu
tự phô trương tài đức của mình thì còn đâu là tư cách của một vị Bồ Tát? Phu
dương tài đức của mình đã không xứng với tư cách của một vị Bồ Tát, huống chi
lại thêm dìm che sự hay tốt của người, thì tội lỗi của bạn đương nhiên lại càng
gia tăng. Cho nên, đứng về lập trường của Bồ Tát thì tội ấy đương nhiên thuộc về
Ba La Di tội rất nặng.
Kinh Bồ Tát
Thiện Giới nói: “Bồ Tát lúc được người tán thán là đã chứng đắc bậc Thập Trụ
hoặc A La Hán... nếu yên lặng nhận lời thì đắc tội”. Theo lời kinh dạy trên, nhận
lời tán thán của người còn không nên, huống chi là tự khen ngợi mình, chê bai
người. Nên biết rằng: che giấu điều tội ác, phu dương công đức lành của người,
đấy là bản hoài lợi sanh của Bồ Tát, bất cứ ở trường hợp nào đều phải thực hành
như vậy.
Trái lại, nếu
khen ngợi mình, chê bai người để mong cầu lợi ích cho mình, làm tổn hại người,
thì đâu còn là tâm từ bi của Bồ Tát?
Cho nên cổ đức
dạy: “Lửa ác nghiệp tự khen tặng mình, chê bai người, phá hoại thiện căn Đại
Thừa tánh giới”.
Hủy báng người
thông thường tội ác đã rất nặng. Hủy báng một vị pháp sư hoằng dương Phật pháp,
tội càng nặng hơn. Nên trong kinh Thập Luân nói: “Hủy báng vị pháp sư truyền pháp
lợi sanh, làm cho Phật pháp nơi ấy không lưu hành được, tội ấy hết sức trọng
đại”.
Vị pháp sư hoằng
truyền Phật pháp chính là hộ trì chánh pháp của Như Lai, đem lại lợi ích cho
tất cả chúng sanh. Nếu bạn hủy báng vị pháp sư ấy, khiến Phật pháp bị trệ ngại,
không lưu thông được, chúng sanh không biết nương vào đâu để được cứu độ, tội
ấy đâu có thể nói là nhỏ?
Ở đây có người
hỏi: bịa đặt chuyện phải quấy, đè bẹp những người khác là không được. Còn chư
Phật, Bồ Tát vì hóa độ chúng sanh mà thị hiện trong nhân gian, vì muốn dẫn dắt
chúng sanh từ con đường tà đi lên con đường chánh đại quang minh của Phật pháp,
hoặc vì bài xích hàng Nhị Thừa về vấn đề không trở về với pháp Nhất Thừa, là pháp
rốt ráo, thì có phạm tội tự khen mình, chê người hay không?
Đáp:
Không!
Vấn đề ấy, nếu
luận nói cũng dường như có sự khen chê, nhưng sự thật hoàn toàn lưu lộ từ tâm
đại từ bi, thể hiện lòng từ thương xót chúng sanh mà hoằng truyền Phật pháp, đồng
thời do đại nguyện nêu cao pháp tràng thúc đẩy. Vì thế, không được dùng ngã
kiến của phàm phu, cùng sự hơn thua nhân ngã thông thường mà luận bàn.
Trong Phật pháp
nhận định rõ: tuyệt đối không được khen chê. Đấy là nói về sự phân biệt nhân
ngã tranh hơn thua với người. Nếu có tâm ấy thì lúc nào cũng chỉ biết mưu sự lợi
ích cho mình, không kể đến sự tổn hại của người.
Trong Du Già Bồ
Tát Giới Bổn, giới khen mình, chê người nói: “Có bốn nhân duyên không vi phạm
giới điều này:
1. Vì muốn tồi
phục tà thuyết của ngoại đạo, hiển dương chánh lý của Phật Đà, nên đem Phật
pháp so sánh cùng ngoại đạo thì không phạm giới này.
2. Vì muốn duy
trì thánh giáo của Như Lai, đem Phật pháp so sánh với pháp ngoại đạo, nói rõ
Phật pháp lợi ích cho chúng sanh như thế nào; tà thuyết của ngoại đạo làm cho
chúng sanh bị trầm luân, thống khổ như thế nào, cũng không vi phạm giới điều
này.
3. Vì muốn cho
ngoại đạo xa lìa pháp tà ác của họ mà tu học theo thiện hạnh chánh pháp của Như
Lai, nên đem Phật pháp so sánh với pháp ngoại đạo, làm phương tiện để điều phục
ngoại đạo. Cho nên dù có tánh khen mình, chê người nhưng không vi phạm giới
điều này.
4. Vì muốn cho
ngoại đạo cùng những người chưa sanh tín tâm thanh tịnh đối với Phật pháp,
khiến cho họ phát sanh tín tâm thanh tịnh. Những người đã có tín tâm thanh tịnh
khiến cho tâm tịnh tín của họ càng thêm tăng trưởng, nên dù có tính cách khen
mình, chê người cũng không vi phạm giới điều này.
Giới khen mình,
chê người này, người người đều vi phạm. Thất chúng Phật tử cũng đều có thể vi
phạm giới này. Vì thế, trong giới luật Đại Thừa cũng như Tiểu Thừa đều có chế lập
giới điều này.
Nhưng giới Đại
Thừa thuộc về tội trọng rất lớn, trong khi bên Thanh Văn thừa, tự khen mình chỉ
phạm đệ thất tụ trong tổng số bảy tụ và tội chê người phạm đệ tam thiên trong
tổng số năm thiên.
Tại sao lại có
sự sai biệt như thế?
Vì hành giả
Thanh Văn thừa lấy tư lợi làm chủ đích, không lấy lợi tha làm yếu vụ, nên tội
này có phần nhẹ hơn. Còn hành giả thuộc Bồ Tát thừa, xem lợi tha là nhiệm vụ căn
bản của mình. Nếu tùy vọng tình mà đi chê bai người, làm cho chúng sanh bị tổn
thất trong những trường hợp không cần thiết, tội này đương nhiên rất
nặng.
Như thế, chúng
ta thấy rõ rằng: đồng là tự khen mình, chê người nhưng luận về tội trạng giữa
Đại Thừa và Tiểu Thừa có sự bất đồng rất lớn. Vì thế, các hàng Phật tử phải chú
ý, không được vi phạm giới này. Riêng hành giả Bồ Tát lại càng phải thận trọng
và lưu tâm đặc biệt hơn.
Giới này gồm đủ
cả hai nghiệp Tánh và Giá:
- Đức Phật chế định
giới điều này không cho đệ tử vi phạm, đấy là Giá nghiệp.
- Còn phần Tánh
tội là những trường hợp kẻ thế nhân thông thường vì sự tranh đoạt danh lợi gây
ra tội ác, tai hại phải tán thân mất mạng, mà nguyên nhân tranh danh đoạt lợi là
từ nơi sự khen mình, chê người. Do đó, những trường hợp này thuộc về Tánh
tội.
Bồ Tát vi phạm
giới trọng này, quả báo phải lãnh thọ trong tương lai như thế nào?
Điều này cần
phải xem xét động cơ thúc đẩy sự tự khen mình, chê người chân thật hay không
mới phân biệt được.
- Nếu bạn tự phu
dương tài đức của mình, mà bạn là người có tài đức thật thì chẳng khác nào các
dâm nữ vì muốn được tiền tài mà hy sinh sắc tướng của mình làm những trò lả
lơi, cười cợt để quyến rũ người. Kết quả bị mọi người không đoái hoài đến. Cũng
thế, hành giả trong Phật pháp mà tự tán dương mình để mong cầu tài lợi thì sẽ
không được sự đồng tình của mọi người.
- Nếu những công
đức được tán dương ấy không phải là thật mà chỉ là sự dối gạt mọi người, thì
chẳng những hiện đời bị mọi người khinh rẻ, lại còn mắc tội đại vọng ngữ.
- Nếu chê bai
tội người khác mà tội này có thật thì tội của họ, chính bản thân họ sẽ mang
chịu lấy quả báo, không cần bạn thay họ phu dương. Nếu bạn đi rao nói tội lỗi
của họ thì chính bạn tự gây nghiệp ác khẩu.
- Nếu hủy báng
lỗi người, nhưng lỗi đó không có thật, thì chẳng những mang nghiệp ác khẩu lại
còn gây thêm tội vọng ngữ. Vì thế, quả báo thọ lãnh dĩ nhiên phải rất nặng.
* Tội chê bai
người, trong kinh Báng Phật, chính Đức Phật kể lại một câu chuyện có thật như
sau:
Vào thời quá
khứ, có một vị pháp sư hiệu Biện Tích, là bậc đại đức cao tăng, tuyên thuyết
chánh pháp rất hay, nên ngài đến bất cứ nơi nào để hoằng truyền chánh pháp,
thính chúng đông đến nghìn muôn.
Lúc bấy giờ có
nhiều kẻ sanh tâm tật đố với ngài. Trong số ấy có 10 người liên kết nhau đi hủy
báng Pháp Sư làm cho Pháp Sư bị ảnh hưởng tai hại rất lớn, đến nỗi không thể cư
trú tại khu vực Ngài đang hoằng hóa thuyết pháp độ sanh. Do đó, Phật pháp nơi
đó mỗi ngày một suy vi. Biện Tích Pháp Sư mất hẳn một số rất đông tín
chúng.
10 người hủy
báng Pháp Sư kia, sau khi xả thân, cảm thọ quả báo thật vô cùng bi thảm. Đầu
tiên đọa vào địa ngục trải qua vô lượng kiếp, bị những sự thống khổ như rút lưỡi,
trâu cày... Sau khi khổ địa ngục đã mãn, chuyển thân lên nhân gian bị sanh manh
(đui mù bẩm sinh), cho đến khi đức Thích Ca xuất thế. Dù được theo Phật xuất
gia tu tập các khổ hạnh, nhưng vì nghiệp chướng tàn dư hủy báng Pháp Sư trước
kia, nên trong thân tâm khởi ra những tác dụng cực hại. Nghĩa là, dù các vị ấy
tuy khổ hạnh cách nào, rốt cuộc đều không thể chứng đắc một pháp gì. Do đó về
sau vẫn trở lại đọa vào địa ngục.
* Tội tự khen
mình, trong kinh Đức Phật cũng từng kể một sự thật như sau:
Vào thời quá
khứ, có năm người Phiến-đề-la (1), luân phiên nhau đi tự tán dương công đức của
mình. Trong năm người, bốn người ngồi trong rừng, một người đi đến các thôn trang,
làng mạc rao nói: “Người ở nơi này rất có diễm phúc, vì trong khu rừng phụ cận
xóm làng này, có bốn vị A La Hán cư trú nơi ấy. Nếu các người phát tâm lễ bái, cúng
dường sẽ được công đức vô lượng vô biên”. Vì năm người luân phiên đi rao nói
như vậy nên được sự cúng dường rất rộng lớn, sự thụ hưởng vô cùng sung mãn.
Nhưng sau khi sanh mạng kết thúc, phải đọa vào địa ngục thọ đủ sự thống khổ.
Khi quả báo địa ngục đã hết, tái sanh trong nhân gian phải trả nợ cho các thí
chủ đã cúng dường trước kia. Nếu không làm việc khiêng kiệu thì cũng đi đổ phẩn
uế cho đàn na.
Quý vị hãy nghĩ
thử xem, tội tự phu dương tài đức của mình, đối với chính mình có được tốt đẹp
chi đâu? Tự tán dương mục đích vì mong cầu lợi dưỡng, nhưng những thứ lợi dưỡng
đúng như pháp mà được còn phải xa lánh, huống chi dùng thủ đoạn tự tán dương
không chánh đáng để có được. Cho nên một vị Bồ Tát đúng lý không nên làm việc ấy.
Trong kinh Hộ
Quốc Bồ Tát thuyết minh: “Làm một vị Bồ Tát, phải tuyệt đối xa lìa bốn
pháp:
1. Xa lìa gia
đình mình cư trú trước kia, xem gia đình là chốn lao ngục.
2. Xa lìa tất cả
danh dự, lợi dưỡng trên thế gian. Vì đã xuất gia rồi thì không nên trở lại tham
trước các thứ ấy.
3. Xa lìa Phật
tử, đàn việt hộ pháp của mình, không nên thường lui tới gần gũi các đàn việt.
Nếu gần gũi sẽ có tai hại đắm nhiễm tất cả việc thế tục.
4. Xa lìa sự yêu
tiếc, tham đắm sanh mạng nhục thể của chính mình. Nếu yêu tiếc, tham đắm nhục
thân của mình, tất nhiên sẽ tham trước mong cầu nhiều lợi dưỡng.
Cũng trong kinh
này, có nói bốn pháp làm cho Bồ Tát phải đọa lạc, nên Bồ Tát cần phải đề
phòng:
1. Bồ Tát lấy
việc lợi tha làm cơ bản, nên đối với mọi hạng người đều phải có tâm cung kính.
Nếu không cung kính người tương lai chắc bị đọa lạc.
2. Bồ Tát đối
với bậc có ân đức với mình, phải trực tâm, thành tâm, hết lòng cung kính, không
nên bội ân, dua nịnh mà bị đọa lạc.
3. Bồ Tát biết
lợi dưỡng phá hoại mầm công đức. Vì thế không nên tham cầu nhiều danh dự, lợi
dưỡng. Nếu tham cầu, tương lai quyết định bị đọa lạc.
4. Bồ Tát biết
tự mình có tài đức, không nên tự đi phu dương, huống chi giả hiện một người
hiền đức, tự đi phu dương tài đức của mình? Nếu giả hiện rồi tự đi phu dương, tương
lai quyết định bị đọa lạc.
Tóm lại:
Bồ Tát không nên
vì mong cầu danh dự, lợi dưỡng mà tự khen mình, chê người. Trong kinh dạy: “Bồ
Tát không nên cư trú ở những chỗ có nhiều danh dự, lợi dưỡng phát sanh vì sẽ
làm thương hại rất lớn sự thiện pháp của chính mình”.
Nhưng những bậc
tu hành trong Phật pháp hiện nay, từ sáng đến chiều lăn lộn trong vòng danh dự,
lợi dưỡng, nơi nào có danh dự, lợi dưỡng mới đến. Thế là so với tinh thần Phật
dạy trong kinh: “Chỗ nào danh dự, lợi dưỡng tấp nập đưa đến, cần phải xa lánh
ngoài ba do tuần” đã hoàn toàn hành động trái hẳn lại.
Hàng Phật tử
xuất gia rong ruổi theo danh lợi, có thể nói là hiện tượng Phật pháp bị trầm
một. Lại cũng chính là tuyền nguyên (tuyền: suối; nguyên: nguồn nước. Chỉ
nguyên gốc phát sinh) khiến hàng Phật tử xuất gia bị đọa lạc.
Chẳng những tự
khen mình, chê người là có tội, mà thấy người có công đức không tùy hỷ, trong
Phật pháp cũng xác định là một việc không đúng. Trong Du Già Bồ Tát Giới Bổn
đối với vấn đề này thuyết giảng rất hay: “Nếu chư Bồ Tát an trụ tịnh giới luật
nghi, khi thấy người có các công đức thiện pháp, theo đúng đạo lý phải sanh tâm
tùy hỷ, phải cực lực xưng dương, tán thán người ấy, khiến cho mọi người được
nghe công đức của người ấy để phát sanh tín tâm thanh tịnh, hầu gia tăng công
đức cho chính họ”.
Thế nên, dù ở
bất cứ trường hợp nào, cũng không nên sanh tâm tật đố, làm chướng ngại đối với
người.
Nếu Bồ Tát do
tâm giận ghét tác động, khi thấy người khác quả thực có đầy đủ các công đức,
giới, định, huệ v.v... hoặc có đủ chánh kiến, chánh mạng, danh dự cao trỗi, hay
có đủ tài năng tuyên diễn chánh pháp, cùng thiện hạnh phương tiện v.v... mà
không có ý nguyện cực lực tuyên dương, tán thán mỹ đức của người ấy là quý hóa
thay thì mang tội nhiễm ô, vi phạm giới không tùy hỷ công đức, do trong lòng ôm
ấp tâm niệm nhiễm ô không chánh đáng.
Kết thành tội
trọng của giới khen mình, chê người không phải đơn giản, mà phải hội đủ năm
duyên hoàn bị:
1. Thị chúng
sanh (là chúng sanh): Chúng sanh có ba phẩm:
- Nếu đối với
chúng sanh ở hai phẩm thượng và trung, mà khen mình, chê người thì phạm căn bổn
trọng tội.
Với chúng sanh
hạ phẩm mà khen mình, chê người thì sự tổn hại đối với người khác không lớn
lắm, và lợi dưỡng đối với mình cũng không nhiều nên chỉ phạm tội khinh
cấu.
2. Chúng sanh
tưởng (tưởng là chúng sanh)
* Đối với
hai hạng chúng sanh thượng và trung phẩm nếu khen mình, chê người thì phạm
trọng tội, có hai trường hợp:
- Tâm tưởng
là chúng sanh thuộc hai phẩm thượng và trung.
- Tâm nghi là
chúng sanh thuộc hai phẩm thượng và trung
* Đối với chúng
sanh hạ phẩm nếu khen mình, chê người thì phạm tội khinh cấu, cũng có hai
trường hợp:
- Tâm tưởng là
chúng sanh thuộc hạ phẩm.
- Tâm nghi là
chúng sanh thuộc hạ phẩm.
3. Tán hủy tâm
(tâm khen chê):
Nếu không phải
vì muốn chiết phục ngoại đạo, hay vì muốn đem sự lợi ích cho chúng sanh, mà chỉ
vì cá nhân mình tán dương tài đức của mình; và hủy báng tội lỗi của người chỉ
vì để mong cầu bao nhiêu danh dự, lợi dưỡng đều thuộc về mình, còn người phải
bị mất hết, khiến họ không còn tư thế vững vàng. Dụng tâm như vậy gọi là tâm khen
chê, chính là chủ nghiệp nhân của giới khen mình, chê người. Do chủ nghiệp này,
phải thọ quả báo đọa lạc tam đồ, chịu nhiều thống khổ.
Vì thế, mỗi khi
nội tâm chúng ta khởi niệm khen mình, chê người, phải tìm cách diệt trừ nó,
đừng để nó trở thành kẻ thống soái sai khiến chúng ta tạo ra ác nghiệp.
4. Thuyết tán
hủy cụ (công cụ làm việc khen chê):
Khen chê không
phải tùy ý khai khẩu nói suông mà nhất định phải có công cụ. Trong Luật dạy có
bảy loại công cụ:
- Chủng tánh: tự
khen chủng tánh của mình thuộc về giòng dõi cao quý như các giòng dõi lớn ở Ấn
Độ là Bà La Môn, Sát Đế Lợi v.v... chê bai chủng tánh người thuộc về hạng ty tiện
như Thủ Đà La, Chiên Đà La...
- Hạnh nghiệp:
tự khen hạnh nghiệp của mình đang làm là thuộc hàng chức nghiệp cao thượng,
không phải kẻ thông thường có thể làm được; chê bai hạnh nghiệp của người là
chức nghiệp đê tiện, không phải là người có địa vị.
- Kỹ thuật công
xảo: tự khen kỹ thuật công xảo của mình hết sức cao minh, tinh xảo đặc biệt;
chê bai kỹ thuật công xảo của người là vô cùng vụng về, thấp kém.
- Phạm tội: tự
khen mình là chưa từng làm việc tội ác, tất cả việc làm của mình đều là công
đức, chê bai người trên thế gian này chưa từng làm những việc hữu ích cho nhân quần
xã hội. Tất cả việc làm của họ đều là tội ác, tổn người lợi mình.
- Kiết sử (kiết
phược sai sử): tự khen mình, cho rằng mình dù có phiền não, nhưng sự hoạt động
của phiền não rất là vi tế; chê bai phiền não của người là hết sức thô trọng,
suốt ngày chỉ sinh hoạt quanh quẩn trong hang ổ phiền não, không giờ phút nào
thoát ly.
- Hình tướng: tự
khen tướng mạo của mình trang nghiêm, chê bai tướng của người xấu xa.
- Thiện pháp: tự
khen mình có đủ các thiện pháp công đức, chê bai người không có thiện pháp công
đức để thực hành những công phu như vậy, như vậy...
5. Tiền nhân
lãnh giải (người trước mặt hiểu rõ điều mình giải nói):
Khi bạn thốt ra
lời khen mình chê người nếu người đối diện nghe, hiểu rõ ý nghĩa lời nói của
bạn. Tùy theo ý nghĩa những lời đã nói này, mỗi mỗi đều kết thành tội.
Chú thích:
(1) Năm người
Phiến-đề-la chỉ cho năm vị ác tỳ kheo mắc quả báo sanh làm thạch nữ (là những
người không đủ nam căn và nữ căn), xem kinh Vị Tằng Hữu, quyển hạ.