KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.37. MẠO NẠN DU HÀNH GIỚI
(giới cấm vào
nơi hiểm nạn)
Kinh văn
1. Phiên âm:
Từ câu “nhược Phật tử thường ưng nhị thời đầu đà...” cho đến câu “...phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu là Phật
tử mỗi năm phải hai kỳ hành Đầu Đà, mùa Đông và mùa Hạ. Trong thời ngồi thiền
kiết hạ an cư, thường dùng nhành dương, nước tro, ba y, bình bát, ngọa cụ, tích
trượng, hộp lư hương, đảy lược nước, khăn tay, dao, đá lửa, cái nhíp, giường
dây, kinh luật, tượng Phật, tượng Bồ Tát. Khi Phật tử hành Đầu Đà hạnh cũng như
lúc du phương trăm dặm, ngàn dặm, luôn mang theo bên mình mười tám món
này.
Hai kỳ hành Đầu
Đà hạnh trong mỗi năm: từ Rằm tháng Giêng đến Rằm tháng Ba và từ Rằm tháng Tám
cho đến Rằm tháng Mười. Trong hai kỳ hành Đầu Đà hạnh này phải luôn mang theo
mười tám món ấy bên mình như đôi cánh chim luôn gắn chặt vào thân chim.
Nếu đến ngày Bố
Tát, hàng tân học Bồ Tát cứ mỗi nửa tháng phải làm lễ Bố Tát tụng mười giới
trọng và bốn mươi tám giới khinh.
Lúc tụng giới,
nên ở trước tượng Phật và Bồ Tát mà tụng. Nếu chỉ có một người bố-tát thì một
người tụng. Nếu hai ba người hay đến trăm nghìn người thì cũng chỉ một người
tụng, còn những người khác thì lắng nghe.
Người tụng giới
thì ngồi cao hơn người nghe giới. Mỗi người đều đắp y hoại sắc chín điều, bảy
điều hoặc năm điều (điều là những nếp vải xếp trên y, để phân biệt thứ bậc
trong Tăng, Ni). Trong lúc kiết hạ an cư, cũng phải mỗi việc theo đúng theo
nghi thức quy định.
Lúc hành Đầu Đà
hạnh, chớ đi đến những chỗ có thể xảy ra tai nạn, những cõi nước hiểm ác, nhà
vua hung bạo, đất đai gập ghềnh, cỏ cây rậm rạp, chỗ có những ác thú: sư tử,
cọp, sói, cùng lụt, bão, hỏa hoạn, giặc cướp, đường sá có rắn rít... Tất cả noi
hiểm nạn ấy đều không được đi đến. Chẳng những lúc hành Đầu Đà hạnh, mà ngay
lúc kiết hạ an cư cũng không được đi vào những chỗ hiểm nạn ấy. Nếu cố đi vào
những nơi ấy, Phật tử này phạm khinh cấu tội.
1. Lời giảng
Bồ Tát vì
muốn hộ trì tịnh giới được trọn vẹn nên sẵn sàng nhẫn thọ những đau khổ nước
sôi, lò lửa v.v... Đấy là điều giới trước đã chỉ dạy.
Để bảo tồn sinh
mạng của chính mình, nhờ đó có thể trường kỳ tu học Phật pháp, nên đối với bất
cứ nơi nào có tai nạn, dù rất nhỏ, cũng phải hết sức tìm cách tránh xa, chính
là điểm giới này sẽ thuyết minh.
Việc tu học Phật
pháp không phải muốn làm gì thì có thể làm ngay tức khắc, mà cần phải có đầy đủ
các thứ trợ duyên mới có thể làm được. Nếu thiếu sức trợ duyên, muốn thực hành
Bồ Tát đạo một cách hoàn bị, thì thật là muôn phần khó khăn. Cho nên phải hết
sức chú ý và cẩn thận vấn đề tai nạn.
Nếu trái phạm
giới này thì phải mắc tội như thế nào?
Điều này cần
phải xem xét mức độ tai nạn ở nơi xảy ra nhẹ nhàng hay nặng, vấn đề bỏ bê sự tu
hành lâu hay mau, lời phê bình, chê bai nhiều hay ít mà quyết định. Nếu nạn xứ
nhẹ, sự bỏ bê tu hành ít, những lời phê bình, chê bai nhẹ thì mắc tội nhẹ. Nếu
ngược lại, thì tội mắc phải cố nhiên là nặng.
Những trường hợp
nào có thể nói là không vi phạm?
Điều ấy cần phải
xem tình hình thực tế lúc ấy như thế nào mà định đoạt?
- Trường hợp bạn
đi vào con đường hiểm nạn mà không hay biết, hoặc không còn con đường nào khác
thuận tiện hơn để tránh con đường hiểm đó, nên bắt buộc phải mạo hiểm đi vào. Như
thế thì không trái phạm.
- Hoặc vì hóa độ
chúng sanh, dù biết rõ con đường phía trước có nhiều hiểm nạn, nhưng vì chúng
sanh nên vẫn tiến bước, không nghĩ đến tai nạn để giúp chúng sanh được an ổn,
khỏi tai nạn, không bị thiệt mất thân mạng. Trường hợp này không trái phạm
giới.
- Hoặc trong
trường hợp mình đang trong trạng thái si mê, điên cuồng, không biết thế nào là
tai nạn, nên cứ ngớ ngẩn xông vào chỗ có tai nạn, như thế cũng không bị kết
tội.
Ai lại không
muốn tránh khỏi chỗ có tai nạn? Ai lại muốn đem sinh mạng mình rước lấy tai nạn
để làm trò cười cho nhân thế? Nhưng vì sự việc khẩn cấp không thể làm khác hơn
được. Trường hợp này không gọi là phạm giới.
Giới này thất
chúng Phật tử đều phải học và tuân hành, như trong kinh Thiện Sanh nói: “Nếu ưu
bà tắc một mình đi vào chỗ hiểm nạn, không có bạn đồng hành thì mắc tội thất
ý”.
Theo lời kinh
dạy trên, nếu trường hợp có nhiều người cùng đi, thì không phạm giới. Hành giả
Đại Thừa và Tiểu Thừa đều phải vâng giữ.
Riêng đối với
các đại sĩ Đại Thừa thì Phật chế định mười tám thứ phải mang theo bên mình, còn
hành giả Thanh Văn chỉ mang theo sáu món đồ vật tùy thân:
1. Y Tăng-già-lê
(đại y, từ 9 điều đến 25 điều).
2. Y Uất Đa La
Tăng (trung y, gồm có 7 điều).
3. Y An Đà Hội
(hạ y, gồm có 5 điều).
4. Thiết Đa La
(bình bát bằng sắt).
5. Ni-sư-đàn
(tọa cụ).
6. Đảy
lược nước.
Ngoài ra,
những điều khác không ở trong hạn lệ cấm chế. Đức Phật dạy đại chúng rằng: “Nếu
là một Phật tử đã thọ Bồ Tát giới, phải mỗi năm hai kỳ hành Đầu Đà hạnh. Mùa
Đông và mùa Hạ đều ngồi thiền, kiết hạ, an cư”.
Kinh văn nói hai
thời là chỉ hai mùa Xuân và Thu, vì hai mùa này khí hậu điều hòa thư thái,
không bị lạnh, nóng xâm tổn, vạn vật đều phơi phới tốt tươi. Là thời gian lý
tưởng cho đại sĩ du hành giáo hóa chúng sanh, để đem lại sự lợi ích cho mình
lẫn người. Nghĩa là đối với thân thể của mình không bị suy tổn, đối với thân
mạng chúng sanh không bị tổn hại. Vì thế trong khoảng thời gian hai mùa nói
trên, hành giả nên thường du hành trong nhân gian để hóa độ chúng sanh.
Đầu Đà là tiếng
Ấn Độ, Trung Hoa dịch là Đầu Tẩu, nghĩa là người Phật tử phải có tinh thần phấn
chấn, đại vô úy, phải bỏ tất cả phiền não ẩn tàng trong tâm từ vô thỉ, khiến
cho các công đức thiện căn ngày một tăng trưởng, để cầu thành tựu vô thượng
Phật đạo.
Thông thường
hạnh Đầu Đà theo các kinh nói, có mười hai thứ như sau:
1. Trụ A Lan
Nhã: ở nơi tịch tịnh xa xóm làng và người đời.
2. Khất thực:
mỗi sáng phải mang bát đi khất thực để tránh lỗi giải đãi.
3. Nạp y: chỉ
mặc áo phấn tảo.
4. Nhất tọa
thực: Mỗi ngày chỉ ăn một lần vào lúc đúng Ngọ.
5. Tiết lượng
thực: lúc thọ thực phải tiết chế, ăn vừa theo sức của mình.
6. Trung
hậu bất ẩm tương: sau giữa trưa không uống các thứ nước trái cây.
7. Trủng
gian tọa: ngồi nơi gò mả.
8. Thọ hạ
tọa: ngồi dưới gốc cây.
9. Lộ địa
tọa: ngồi nơi không che lợp.
10. Thường
tọa bất ngọa: thường ngồi chớ không nằm.
11. Thứ đệ
khất thực: lúc đi khất thực phải theo thứ tự không được lựa chọn.
12. Đản
tam y: chỉ chứa cất ba y, không được chứa dư.
Với mười
hai hạnh Đầu Đà trên, Đức Phật chủ ý là muốn cho hành giả đối với ba việc y
phục, uống ăn, và chỗ ở không sanh tâm tham trước, chỉ một mực dũng mãnh tiến
tu cho mau được giải thoát.
Hạnh Đầu
Đà không phải là giới điều của Phật chế lập, nên nếu vị nào có đủ khả năng
phụng hành thì giáo hóa càng được trang nghiêm, còn vị nào không đủ khả năng,
không thể thực hành được, cũng không phạm tội.
Lúc tiết Đông
thiên giá lạnh, trời Hạ lại quá nóng bức, nên Bồ Tát muốn đi du hành giáo hóa
chúng sanh thật có nhiều bất tiện. Thế nên cần phải ở yên một nơi, thúc liễm
thân tâm, tọa thiền, niệm Phật, tụng kinh v.v... không để tâm rong ruổi theo
cảnh trần bên ngoài, để được đắc Định, đắc Huệ. Kiết Hạ An Cư là pháp chánh
thức của Bồ Tát tỳ kheo cần phải thực hành.
Danh từ “an cư”
trong bộ Bồ Tát Sơ Tân, quyển bảy, nói:
“Thế nào gọi là
An Cư?
Là giữ gìn thân
tâm cho được tịch tịnh gọi là An, khắc định thời hạn an cư trú một nơi để tu
hành gọi là Cư”.
Đức Phật chế
định thời gian an cư là chín mươi ngày; hành giả phải ở yên một nơi, tinh tấn
dũng mãnh, gia công tu hành. Lúc Đức Phật còn tại thế, có nhiều vị nhờ an cư mà
đắc Định, hoặc có vị chứng thánh quả. Vấn đề An Cư có hai loại:
- Tiền An Cư: từ
mười sáu tháng Tư đến rằm tháng Bảy.
- Hậu An Cư: từ
mười sáu tháng Năm đến rằm tháng Tám.
Trong
khoảng thời gian này, về sinh vật vô tình thì cỏ cây rậm rạp, về hữu tình thì
trùng, kiến sản sanh quá nhiều, nên Đức Phật không cho phép tỳ kheo du hành bên
ngoài, vì e sợ gây tổn hại sinh mạng cho chúng sanh.
Từ hai chữ
“thường dùng” trở xuống là đề cập đến mười tám món tùy thân của Bồ Tát lúc du
hành giáo hóa, phải có đủ, không được thiếu một món nào. Mười tám món đó
là:
1. Nhành dương:
Dùng để cho miệng được sạch sẽ, tức là bàn chải đánh răng thời bấy giờ. Vì thời
xưa chưa có bàn chải nên dùng nhành dương thế cho bàn chải. Luật dạy dùng nhành
dương có năm điều lợi ích: chắc răng, sáng mắt, thanh tâm, tiêu bịnh phong, trừ
nhơ bẩn. Phật dạy tỳ kheo sau khi ăn uống phải dùng nhành dương, nếu không thì
phạm tội đọa.
2. Tháo
đậu (nước tro): dùng để làm cho thân thể sạch sẽ, giống như xà bông hiện nay.
Khi tắm gội phải dùng xà bông đã đành, mà sau khi đại tiểu tiện, cũng phải dùng
xà bông rửa tay cho sạch sẽ rồi mới được lạy Phật, tụng kinh v.v... nếu không
sẽ mắc tội.
3. Ba y: y
ngũ điều, thất điều và đại y. Tỳ kheo mặc ba y không giống với y phục thông
thường của người thế tục. Ý nghĩa tỳ kheo mặc ba y là diệt trừ tham, sân,
si.
4. Bình có
ba loại:
- Tịnh bình:
dùng đựng nước uống.
- Tùy dụng
bình: dùng đựng nước rửa mặt, rửa tay.
- Xúc bình
hay trược bình: dùng rửa chỗ đại, tiểu tiện. Trong Luật gọi là Tẩy Tịnh.
5. Bát:
gọi là Bát Đa La. Trung Hoa dịch là Ứng Lượng Khí. Nghĩa là thể, sắc, lượng, là
ba thứ đều ứng hợp với Luật Phật dạy. Thế thì dùng sành và sắt, không được dùng
thất bảo, kim, ngân, hoặc đồng, cây... Màu sắc thì dùng dầu mè đốt xông mà
thành. Lượng thì tùy theo lượng bụng của mỗi người mà ăn nhiều hay ít để phân
làm ba thượng, trung và hạ. Bát lớn nhất không quá ba thăng, bát nhỏ nhất không
quá một thăng rưỡi. Quý tỳ kheo chỉ dùng bát để thọ thực, cốt để tu dưỡng thân
mạng mà tu hành, không được có tâm tà vạy, mong cầu cho nhiều, cũng không được
sống theo lối tà mạng.
6. Tọa cụ:
Tiếng Phạn gọi là Ni Sư Đàn, Trung Hoa dịch là “ngọa cụ” (đồ nằm), tọa cụ (đồ
ngồi), phu cụ (như chiếu). Khi ngồi tọa thiền dùng Ni-sư-đàn trải làm bồ đoàn.
Khi ngủ dùng làm nệm nằm. Hiện nay chúng ta đem ni-sư-đàn để lễ Phật hoặc các
bậc tôn túc là hoàn toàn không đúng với ý của Phật chế lập và cũng không đúng
với cách dùng ni-sư-đàn, trong lúc niệm hương, cầm dâng lên trước Phật, thật là
đại bất kính!
7. Tích
trượng: Ấn Độ gọi là Khích Khí La. Trung Hoa dịch là Trí Trượng, Đức trượng
hoặc Tích trượng. Dùng tích trượng để tiêu biểu cho ý nghĩa dựng cao pháp tràng
của Như Lai, hoặc dựng cờ nêu của bậc hiền thánh. Tích trượng còn tượng trưng
cho trí huệ và đức hạnh của bậc thánh nhân.
8. Hộp lư
hương: Hương dùng tiêu biểu cho giới đức thơm tho bát ngát. Lư dùng để cắm
hương, cũng là tiêu biểu cho người Phật tử trì giới kiên cố. Hộp là vật để đựng
hương, đáy hộp bằng phẳng tượng trưng tâm địa của Bồ Tát bình đẳng.
9. Đãy
lược nước: Cái vợt lược nước may bằng lụa dày. Bồ Tát du hành giáo hóa trong
nhân gian, đôi khi phải dùng đến nước, nên phải dùng vợt lược nước để không làm
thương hại sinh mạng của những loại trùng nhỏ sống trong nước. Đây cũng là hành
vi biểu lộ lòng từ bi của người Phật tử.
10. Khăn
tay: Bồ Tát du hành giáo hóa trong nhân gian, tùy cảnh nhi an, không cần phải đem
khăn tay cũng được. Nhưng vì muốn giữ vệ sinh, phòng bệnh truyền nhiễm, nên đem
khăn tay tiện dùng khi rửa mặt, rửa tay, để khỏi dùng khăn của người. Hơn nữa
khăn tay là tượng trưng cho sự diệt trừ cấu nhiễm, xa lìa tâm không biết hổ
thẹn.
11 Dao cạo:
dùng để cạo râu tóc, vì Bồ Tát du hành giáo hóa nhân gian, hình tướng phải khác
người thế tục, cho nên phải thường cạo râu tóc để không bị người khác nhầm là
cư sĩ tại gia. Hơn nữa, con dao tượng trưng ý nghĩa hàng phục tử ma (phiền não
ma, ngũ ấm ma, thiên ma, tà ma).
12 Hỏa
loại: đồ dùng để lấy lửa, cũng gọi là hỏa thạch (đá lửa –
13. Cái
nhíp: dùng để nhổ gai, vì Bồ Tát hành Đầu Đà hạnh, phải đi chân không, không
được mang giày dép. Đôi khi vô ý đạp nhằm gai góc, phải dùng nhíp để nhổ gai
ra, không để gây trở ngại cho sự du hành. Nhíp còn tượng trưng cho sự nhổ gốc
rễ phiền não.
14. Giường dây:
loại giường làm bằng cách bện các thứ dây rồi đan lại mà thành. Bồ Tát đi du
hành giáo hóa, khi nào muốn nghỉ ngơi có thể mắc giường vào giữa hai gốc cây để
nằm nghỉ. Như thế, chẳng những tránh được hơi ẩm ướt của mặt đất, lại còn diệt
trừ tâm cống cao của mình, và cũng ngăn chặn tâm buông lung.
15. Kinh: lời
Phật dạy bảo, khai thị, chỉ đạo cho hàng Phật tử đúng như pháp tu hành để mở mang
trí tuệ, tăng trưởng phước đức.
16. Luật: lời
răn dạy của Phật, hàng Phật tử xuất gia lẫn tại gia phải lấy giới luật làm mô
phạm cho thân tâm. Nếu nghiêm trì ba nghiệp đúng như pháp, như luật, không trái
phạm thì sẽ được giải thoát.
17. Tượng Phật:
để chứng tỏ Phật tử từng giờ, từng phút đều không dám quên Đức Phật là đức Bổn
Sư đắc giới, cũng là bậc đạo sư tối cao của mình, hành giả lúc nào cũng mang
tượng Phật theo.
18. Tượng Bồ
Tát: Cũng để tượng trưng tinh thần không bao giờ quên bậc đồng học thiện hữu
của mình, những người tốt và quý báu nhất của mình, dù chỉ trong phút
giây.
Do đó, Bồ Tát du
hành giáo hóa chúng sanh, nhất định phải mang tượng Phật và Bồ Tát theo, để tùy
thời, tùy nơi thuận tiện mà cung kính cúng dường. Xem đó là tấm gương giúp mình
tu Bồ Tát hạnh, không vì bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào mà giải đãi.
Mười tám món kể
trên, đối với hành giả Bồ Tát không thể xa rời trong giây lát. Nếu xa lìa thì
không phải là người thực hành Bồ Tát hạnh. Do đó, chúng ta thấy rõ tính chất
trọng yếu của mười tám món này.
Cho nên kinh văn
dạy tiếp: “Khi Bồ Tát hành Đầu Đà hạnh, cùng khi du phương qua lại, dù là nơi
gần trăm dặm hay những địa phương xa nghìn dặm, mười tám thứ đồ vật này đều
phải luôn mang theo bên mình. Vì đó là những thứ thường dùng, nếu không luôn
mang theo bên mình, đến khi cần dùng mà không có thì thật là bất tiện”.
Kinh văn nói
hành Đầu Đà hạnh là chỉ thời gian nào?
Mùa Xuân từ Rằm
tháng Giêng đến Rằm tháng Ba; mùa Thu từ Rằm tháng Tám đến Rằm tháng
Mười.
Trong khoảng hai
thời gian này, khí hậu không nóng cũng không lạnh. Chính là thời gian thật lý
tưởng cho Bồ Tát du hành. Khi Bồ Tát phát tâm tu hành giáo hóa trong nhân gian,
phải luôn luôn ghi nhớ là mười tám món này là những vật bất ly thân, luôn luôn
phải có bên cạnh. Giống như chim bay trên không muốn tự do bay lượn, hoàn toàn
nhờ vào đôi cánh. Nếu không có đôi cánh thì không thể bay được. Phải biết rằng
Bồ Tát du hành giáo hóa nhân gian cũng như thế, nếu không mang theo 18 món này,
thì việc du hành sẽ gặp trở ngại không ít.
Nếu đến ngày bố
tát, hàng tân học Bồ Tát mới thọ giới, đối với nghi thức tụng giới thông thường
và những tội khinh hoặc trọng của giới tướng mà mình không biết, không rõ thì
cần phải tinh tấn Bố Tát. Mỗi nửa tháng tụng mười giới trọng, bốn mươi tám giới
khinh, cố gắng giữ gìn và luôn kiểm điểm những giới điều mình đã thọ, xem có vi
phạm hay không. Nếu có vi phạm thì phải đối trước tượng Phật, Bồ Tát phát lộ
sám hối, còn nếu không trái phạm thì phải càng thúc liễm thân tâm hơn nữa, để
tránh sự buông lung trái phạm cấm giới.
Đến ngày tụng
giới thì phải tụng ở nơi nào?
Khi Phật còn tại
thế thì chính kim khẩu của Phật tụng. Sau khi Phật diệt độ, Phật tử phải đối
trước hình tượng Phật, Bồ Tát để tụng. Nếu ở trong Tăng Già Lam, khi tụng giới
Tiểu Thừa thì toàn thể đại chúng phải tụ họp ở giới đường mà tụng.
Khi tụng giới
Đại Thừa thì đại chúng phải tụ họp ở trên điện Phật mà tụng, để tượng trưng có
Tam Bảo hiện tiền.
Hiện tại giới
này đề cập lễ Bố Tát của Bồ Tát khi đang du hành giáo hóa. Vì trong mười tám
món mang theo có kinh luật, tượng Phật và tượng Bồ Tát, nên lúc tụng phải ở
trước tượng Phật, tượng Bồ Tát mà tụng, để có Phật, Bồ Tát chứng minh, đồng
thời chứng tỏ đại sĩ tụng giới không khác với Phật và Bồ Tát. Cho nên không nên
tùy tiện tụng bất cứ ở nơi nào cũng được.
Trong lúc tụng
giới, pháp thức tụng giới như thế nào?
Nếu chỉ có một
người bố tát, thì đương nhiên một người tụng. Nếu hai, hoặc ba người, nhẫn đến
trăm nghìn người cùng tụ tập một chỗ để bố tát thì cử ra một người trong đó tụng
giới, còn bao nhiêu người còn lại chỉ lắng nghe, không nên đồng tụng để tránh
sự nhiễu loạn tâm ý của những người nghe.
Người tụng nên
ngồi trên cao, để cho âm thanh tụng giới đến tai người nghe được dễ dàng.
Người nghe giới
nên ngồi thấp để chứng tỏ tâm tôn trọng người và pháp, không có tâm khinh
người, mạn pháp.
Lại nữa, người
tụng lẫn người nghe giới, mỗi người đều đắp ca sa chín điều, bảy điều và năm
điều, không được mặc y phục thế tục mà trái với tăng thể.
(Ca-sa là tiếng
Ấn Độ, Trung Hoa dịch là Hoại Sắc Phục, là y phục của người xuất gia mặc. Bất
kỳ là đại y, thất y, ngũ y đều phải giản dị, không được quá cầu kỳ, hoa
mỹ).
Trong lúc tụng
giới đều mặc cả ba y, để thể hiện tinh thần tụng giới hết sức trang trọng,
không được chỉ mặc một y bảy điều hoặc năm điều (nếu chỉ mặc một tăng già lê
thì cũng được). Đó là đối với hàng Bồ Tát tỳ kheo, tỳ kheo ni.
Còn Bồ Tát thức
xoa ma na, Bồ Tát sa di, sa di ni, chỉ dùng mạn y. Đối với nam nữ tại gia thì
vào trong giới trường để tụng giới, trước tiên phải lễ Phật, lễ tăng, đến lúc
tụng giới cũng chỉ mặc mạn y. Sau khi tụng giới xong, phải xếp y cất, chớ không
được mặc.
Chẳng những lúc
tu Đầu Đà hạnh, du hành giáo hóa, phải theo đúng nghi thức trên để cử hành lễ
Bồ Tát, mà ngay lúc kiết hạ an cư cũng phải mỗi mỗi việc đều theo đúng pháp tắc
thực hành, không được sai phạm mảy may.
Du hành giáo hóa
nhân gian và kiết hạ an cư đều là việc rất tốt. Nhưng những nơi có tai nạn đều
không được du hành hoặc kiết hạ.
Lúc hành đầu đà
hạnh không nên đi đến chỗ có tai nạn, vậy những chỗ tai nạn nào không nên
đến?
1. Cõi nước hiểm
ác: Những nước gặp lúc hạn hán, mất mùa hay đang xảy ra những vụ tàn sát, đói
khát v.v... Những lúc ấy không thích hợp cho việc tu hành giáo hóa của Bồ Tát,
vì vậy không nên đi.
2. Nhà vua hung
bạo: ngày xưa, vua là vị lãnh đạo tối cao, nắm mọi quyền hành trong nước. Nếu
vị vua đó đối với Tam Bảo không tôn kính, không biết tu phước huệ, lại còn làm
những chuyện bạo ngược, hung ác. Nếu Bồ Tát đến đó để giáo hóa thì chẳng những
không đạt được kết quả, lại còn gặp nhiều khó khăn, cho nên Bồ Tát không nên
đi.
3. Đất đai gập
ghềnh: nói những nơi hiểm trở, không bằng phẳng, nếu đi đến những nơi đó, có
thể bị thiệt hại thân mạng, nên cũng không nên đi.
4. Cỏ cây rậm
rạp: Những nơi có nhiều chướng ngại qua lại, và có nhiều bất trắc, nên Bồ Tát
không nên đi.
5. Chỗ có sư tử,
cọp sói: Những nơi có nhiều ác thú, nếu du hành đến đó có thể gặp nguy hiểm,
nên Bồ Tát cũng không được đến.
6. Tai nạn
lụt bão, hỏa hoạn: những nơi phát sanh đại thủy, đại hỏa, phong tai.... Bồ Tát
không nên đi, vì dù có đi cũng không thực hiện được công hạnh độ sanh.
7. Giặc cướp:
Những nơi có nhiều bọn cường đạo, trộm cướp, cướp của giết người. Những chỗ như
thế đến để làm gì?
8. Đường sá có
rắn rít: Những nơi tuy không có tai nạn gì, nhưng nếu trên đường đi đến những
chỗ ấy có nhiều rắn độc v.v... thì cũng không nên đi.
Cuối cùng nói
tóm lại, tất cả những nơi hiểm nạn ấy, đều không được đến. Chẳng những lúc hành
Đầu Đà Hạnh, mà ngay lúc kiết hạ an cư cũng không được lui tới những nơi hiểm
nạn này. Vì kiết hạ an cư cốt để được an tâm tu niệm. Đối với những nơi có tai
nạn thì không thể an tâm được. Như vậy thử hỏi đến nơi đó để làm gì?
Sở dĩ Đức Phật
cấm Phật tử không được vào những nơi hiểm nạn, vì hàng tân học Bồ Tát nhẫn lực
chưa đầy đủ. Nếu cố cưỡng đi vào những nơi này, vạn nhất xảy ra tai nạn, thì
chẳng những chính mình bị bất lợi rất nhiều, mà lại còn làm cho mọi người sanh
tâm phỉ báng và thối thất tín tâm. Vì họ cho rằng người tu hành trì giới còn không
tránh khỏi tai bay họa gởi, huống chi là họ. Vì lý do ấy mà họ thối chí, ngã
lòng, đối với việc tu hành và tín tâm trong Phật pháp cũng bị hao tổn.
Nếu tự ỷ mình là
người có đức, không biết sợ những nơi có tai nạn, cố tình trái lời dạy của Như
Lai, đi vào những nơi hiểm nạn để du hành giáo hóa, thì Phật tử này phạm khinh
cấu tội.
Có người cho
rằng:
Đáng lẽ Bồ Tát
phải vì pháp mà quên mình, nên đi đến những chỗ hiểm nạn để hóa độ chúng sanh,
chuyện ấy có gì là không nên?
Đáp: Đúng thế!
Bồ Tát vì hóa độ chúng sanh có thể hy sinh tính mạng, nhưng sự hy sinh đó phải
là trường hợp cần thiết mới có giá trị, bằng không thì chớ nên đi vào những chỗ
hiểm nạn, như vậy mới là hợp lý vậy.
Lời
phụ:
Nhân tiện dịch
giả y trong kinh luật và các bộ truyện cung kính dịch thuật về cách thức rửa
tay và tẩy tịnh khử uế để quý đại sĩ y theo lời Phật dạy mà phụng hành thì được
tiêu tội, tăng phước. Còn khi đi đại tiện, sau khi đúng pháp khử uế, khi rửa
tay nên dùng phì tạo hoặc tro đốt (ngày nay dùng xà bông), rửa tay cho sạch
sẽ.
Trong Luật Tăng
Kỳ dạy: “Tỳ kheo mỗi buổi sáng mai thức dậy, phải rửa tay cho sạch sẽ, không
được rửa sơ sài cho lấy có. Khi rửa phải rửa năm đầu ngón tay và từ cánh tay
trở ra cho thật sạch, không cần rửa đến nách. Không được rửa một cách thô tháo
làm mất oai nghi, cũng không được chà rửa cho tới ra máu. Khi rửa phải kỳ, chà
cho có tiếng. Lúc đã rửa sạch rồi, nếu tay đụng phải những vật khác thì gọi là
bất tịnh, cần phải rửa lại!”
Cũng trong Luật
Tăng Kỳ dạy rằng: “tỳ kheo trước giờ thọ thực phải giữ gìn hai tay cho sạch sẽ,
nếu dùng tay gãi đầu, hoặc cầm mê hoàn tăng (quần), hoặc dép da, hay bưng bình
tô, bình dầu v.v... phải y như trước, rửa tay lại cho sạch. Nếu cầm chiếc Tăng
Già Lê hay Uất Đa La Tăng, cũng phải rửa tay lại cho sạch”.
Trong kinh Hộ
Tịnh dạy: “Dùng tay bất tịnh mà đụng đến thức ăn thanh tịnh của sa môn, đem đồ
ăn bất tịnh cho chúng tăng ăn, do nhân duyên ấy, sau khi xả thân năm trăm đời
sau đọa trong loài ngạ quỷ thường ăn vật bất tịnh”.
Hơn nữa, trong
móng tay thường dễ tích tụ mồ hôi, đất, các thứ nhơ uế, nên phải thường cắt cho
sạch. Trong Luật dạy, không cho chừa móng tay dài, dù chỉ bằng hạt lúa. Nếu
người nào trái phạm thì mắc tội Đột Kiết La. Đột Kiết La còn gọi là Đột Tất
Kiết Lật Đa, Đột Sắc Chi Ly Đa, Đột Ha La, là một thiên tội nhẹ nhất trong năm
thiên tội của giới tỳ kheo. Trong luật Tứ Phần, phần Đột Kiết La là hai nghiệp
thân, khẩu, nên Trung Hoa dịch là Ác Tác hoặc Ác Thuyết, tức là tội của thân
nghiệp gọi là Ác Tác, tội của khẩu nghiệp gọi là Ác Thuyết.
Như trên đã lược
giải thích vì sao phải rửa tay và khi rửa tay phải tụng bài kệ rửa tay và câu
thần chú sau đây:
Dĩ thủy quán
chưởng,
Đương nguyện
chúng sanh,
Đắc thanh tịnh
thủ,
Thọ trì Phật
pháp.
Án, chủ ca ra da
tóa ha (3 lần)
Dịch:
Dùng nước rửa
tay,
Nguyện cho chúng
sanh,
Được tay thanh
tịnh,
Thọ trì Phật
pháp.
Hai chữ “quán
chưởng” có nghĩa là rửa tay. Hai chữ “thọ trì”: thọ nghĩa là nhận, trì là giữ
gìn, ghi nhớ.
Do có Tín lực
nên nạp thọ, lãnh thọ; do Niệm Lực nên ghi nhớ, giữ gìn. Trong bộ Thắng Man Bảo
Quật nói: “Đầu tiên thì lãnh thọ nơi tâm nên gọi là Thọ; cuối cùng thì nhớ nghĩ
không quên, gọi là Trì”.
Hai chữ Phật
pháp ở câu kệ thứ tư là chỉ tám muôn bốn nghìn pháp môn do Đức Phật nói.
Kinh Đại Bảo
Tích nói: “Đức Như Lai từng nói tất cả pháp đều là Phật pháp”. Cũng trong kinh
Bảo Tích nói: “Bổn tánh của các pháp đồng với Phật pháp, thế nên các pháp đều
là Phật pháp”.
Trong kinh Thắng
Man nói: “Tất cả Phật pháp đều gồm trong tám muôn bốn ngàn pháp môn”.
Đã lược giải
thích ý nghĩa bài kệ, tiếp theo xin y theo bộ Khê Đường Tạp Lục nói về lỗi rửa
tay không sạch như sau:
Vào triều Đường,
niên hiệu Nguyên Hựu, tại đất Thục có Pháp Sư hiệu là Trí Siêu từng tụng kinh
Hoa Nghiêm đã ba mươi năm. Một hôm, bỗng có một đồng tử từ phương xa đến, diện
mạo khôi ngô, cung cách đoan chánh, đưa hai tay lên cao chào Pháp Sư.
Trí Siêu Pháp Sư
hỏi: “Đồng tử từ đâu đến?”
- Từ non Ngũ Đài
đến.
- Từ xa đến đây
có việc chi?
- Có chút việc
muốn nhắc nhở cho nhau.
Trí Siêu Pháp Sư
nói: - Tôi sẵn sàng nguyện lãnh thọ.
Đồng tử nói: -
Thầy tụng kinh Hoa Nghiêm là việc đáng khen, và quý báu vô cùng. Nhưng có chút
lỗi là khi đại tiểu tiện xong, lúc tẩy tịnh nước dơ còn dính nơi lưng bàn tay
của thầy, mà thầy không dùng tro đất rửa cho sạch. Trong Luật dạy phép dùng tro
đất khi rửa tay phải đủ bảy lần, nhưng thầy chỉ rửa ba bốn lần nên tay vẫn còn
dơ. Do đó, lễ Phật, tụng kinh đều mắc tội.
Đồng tử nói xong
biến mất. Trí Siêu Pháp Sư lấy làm hổ thẹn. Từ đó về sau, y theo luật Phật dạy,
rửa tay sạch sẽ, không dám trái phạm. Các bậc kỳ cựu trong Phật pháp đương thời
cho rằng đồng tử ấy chắc là đức Văn Thù Bồ Tát hóa thân đến để nhắc nhở cho Trí
Siêu Pháp Sư.
Trong kinh dạy:
“Nếu dùng tay dơ thỉnh kinh sẽ mắc quả báo làm trùng trong nhà xí”.
Xét cho kỹ thì
con người là sinh vật tối linh trong muôn vật, làm được trăm nghề đều do hai
bàn tay. Nếu vì không cẩn thận, không y lời Phật dạy, rửa tay cho sạch sẽ, dùng
hai tay dơ bẩn thỉnh kinh mà mắc quả báo làm trùng trong nhà xí, thật chẳng
phải là sự đáng buồn và đáng tiếc lắm sao?!
Thế nên toàn thể
Phật tử xuất gia cũng như tại gia, đều nên kính cẩn tuân hành lời Phật dạy,
đúng như pháp hành trì, tay được thanh tịnh thọ trì chánh pháp của Như
Lai.
Tiếp theo đây
xin nói về pháp tẩy tịnh:
Đức Phật dạy tỳ
kheo sau khi đại tiểu tiện đều phải tẩy tịnh, nếu không thì mắc tội. Trong Luật
Thập Tụng dạy: “Nếu người nào không rửa chỗ đại tiện thì không nên nằm ngồi
trên giường ghế của chúng Tăng. Nếu nằm thì phạm tội Đột Kiết La”.
Trong bộ Tam
Thiên Oai Nghi nói: “Nếu tỳ kheo không rửa chỗ đại, tiểu tiện thì phạm tội Đột
Kiết La, cũng không được nằm ngồi trên giường ghế của chúng Tăng và lễ Tam Bảo.
Nếu lễ thì cũng không phước đức gì hết”.
Trong bộ Tỳ Nại
Da Tạp Sự nói: “Nếu người nào không y lời Phật dạy mà tẩy tịnh, thì không nên
lạy Phật, tụng kinh. Tự mình không nên lễ bái người, cũng không được tiếp nhận
sự lễ bái của người đối với mình. Không nên ăn uống, ngồi nằm trên giường ghế
của chúng tăng, cũng không được vào trong đại chúng vì thân không sạch sẽ,
không đúng pháp.
Lại trong bộ Căn
Bổn Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ Bách Nhứt Yết Ma nói: “Đức Phật dạy không nên lễ
bái vị tỳ kheo bị ô nhiễm kia. Vị tỳ kheo bị ô nhiễm ấy cũng không được lễ bái
người khác. Khi thấy vị tỳ kheo ấy lễ thì không nên tiếp thọ... Ô nhiễm có hai
thứ:
1. Do đồ bất
tịnh làm ô nhiễm
2. Do đồ ăn uống
làm ô nhiễm.
Ngài Nghĩa Tịnh
Tam Tạng Pháp Sư chú thích lời Phật dạy trên như sau:
“Thế nào gọi là
do đồ bất tịnh làm ô nhiễm?
Là do các thứ
phẩn, uế, đàm rãi, nước miếng dính trên thân và sau khi đại tiện, tiểu tiện
chưa tẩy tịnh, hoặc trên thân dính bùn đất v.v...
Hoặc sớm mai
thức dậy chưa nhăn mộc xỉ (tức là dùng cành dương nhau nát để chà răng cho
sạch).
Hoặc ngay trong
lúc nhăn mộc xỉ, hoặc dọn dẹp, quét tước những phấn tảo v.v... những điều nói
trên đều gọi là do bất tịnh làm ô nhiễm.
Thế nào gọi là
do đồ ăn uống làm nhiễm dơ?
Là lúc ăn uống
mà chưa súc miệng, hay súc miệng mà còn bợn nhơ. Hoặc uống nước mà chưa súc
miệng đều gọi là do đồ ăn uống làm nhiễm dơ. Có hai thứ nhiễm dơ trên thì thân
sẽ không sạch sẽ. Nếu triển chuyển đụng nhau đều thành bất tịnh” (thân dơ bẩn
đụng đến đồ sạch hoặc là đồ không sạch đụng đến thân đã sạch gọi là “triển
chuyển đụng nhau”)
Căn cứ như trên
mà nói thì những vật nhơ bẩn đụng đến thân, làm cho thân này chiêu cảm lấy tội
lỗi quả báo, điều ấy thật rõ ràng, không còn gì nghi hoặc.
Về nghi thức tẩy
tịnh trong Luật tạng có dạy rõ. Nơi đây xin trích dẫn một câu chuyện trong kinh
Tỳ Nại Da Tạp Sự như sau:
Tôn giả Xá Lợi
Phất là đệ tử thượng thủ của Phật, Ngài giữ gìn giới luật trang nghiêm, oai
nghi đầy đủ.
Tại thành Thất
La Phiệt (Sravasti, tức Xá Vệ), có một người Bà La Môn thường ưa thích tịnh
hạnh thanh tịnh. Ông ta có ý muốn xuất gia nên thường nghĩ rằng: “Nếu có người
nào tẩy tịnh hợp với ý ta, ta sẽ xuất gia làm đệ tử người ấy”.
Ông bèn đi khắp
nơi tìm kiếm, trải qua các phái ngoại đạo và Bà La Môn, những kẻ tu hành cùng
một đạo phái với ông. Ông thấy họ sau khi đại tiện, tiểu tiện, có người thì
không tẩy tịnh, có người vào trong ao lớn, dùng cả trăm nghìn cục đất tẩy tịnh.
Người thì quá dơ bẩn đáng nhàm chán, còn người thì làm quá phiền phức nên đều
không vừa ý ông. Bấy giờ ông mới nghĩ rằng: “Ta đã quan sát khắp các ngoại đạo
và phái Bà La Môn đều không vừa ý ta, nhưng đối với các sa môn Thích tử thì ta
chưa quan sát”.
Nghĩ thế, ông
liền đi đến rừng Thệ Đa, thấy tôn giả Xá Lợi Phất cầm cái quân trì (là cái
trược bình dùng đựng nước để tẩy tịnh), đựng chừng ba thăng nước đi lên nhà xí.
Người Bà La Môn trông thấy nghĩ rằng: “Vị sa môn này là đệ tử thượng thủ của
Kiều Đáp Ma (Gautama), ta hãy để tâm quan sát vị sa môn này tẩy tịnh như thế
nào?” Nghĩ như thế ông bèn đi theo sau Tôn Giả.
Tôn giả Xá Lợi
Phất thấy người Bà La Môn đi theo, không biết vì cớ gì, nên nhiếp niệm định tâm
quan sát, thì biết rõ tâm niệm của ông này mong cầu pháp thanh tịnh, muốn xem
điều thiện ác ở nơi mình. Lại quan sát người này đời trước sẵn có căn lành và
có hệ thuộc với mình.
Quan sát thế
rồi, tôn giả bèn cởi pháp y để phía trên luồng gió, chỉ mặc Tăng-cước-kỳ
(Samkasika - tức là y che nách) và hạ quần mà thôi. Rồi tôn giả lấy bảy nhóm
đất bột sắp thành một hàng lên trên một viên gạch, mỗi nhóm lớn bằng nửa trái
đào; kế tiếp lại sắp bảy nhóm nữa thành hàng thứ hai cũng trên miếng gạch ấy,
rồi để riêng một nhóm khác một bên. Đoạn ngài cầm một miếng thẻ và ba cục đất
vào trong nhà xí.
Tôn giả không
đóng cửa vì muốn cho người Bà La Môn đứng đằng xa trông thấy. Sau khi đại tiểu
tiện xong, dùng miếng giẻ lau mình (như bây giờ dùng giấy vệ sinh), đoạn dùng
tay tả lấy một cục đất tẩy tịnh (tức là tẩy chỗ đại tiện), rồi lấy một cục đất
khác tẩy chỗ tiểu tiện. Làm sạch sẽ xong rồi, kế dùng cục đất thứ ba tẩy tay
bên tả, tay bên hữu cầm bình đi đến chỗ đất bột khi nãy, múc nước chế vào bình,
để trên vế cho nước chảy ra. Dùng bảy nhóm đất bột trên hàng thứ nhất rửa tay
trái (mỗi nhóm bột rửa một lần). Đoạn lấy bảy nhóm đất bột hàng thứ hai rửa cả
hai tay cho sạch sẽ, sau đó rửa hai cánh tay cũng sạch sẽ. Lại lấy nhóm đất bột
để riêng để súc rửa bình. Xong rồi dọn dẹp sạch sẽ, đoạn lấy pháp y mặc vào,
giữ gìn oai nghi tịch tịnh, kế tiếp múc nước rửa hai chân, rồi vào phòng lấy
nước đựng trong tịnh bình súc miệng hai ba lần. Sau đó, Ngài mới bắt đầu tùy ý
làm mọi chuyện khác.
Người Bà La Môn
đứng quan sát kỹ, ông rất hoan hỷ và khởi sanh tín tâm đối với tôn giả. Ông
nghĩ rằng: “Vị sa môn nầy tẩy tịnh hết sức thích hợp với ý ta. Thật là một pháp
tối yếu hết sức quý hóa. Các ngoại đạo và những nhà tu hành trong phái Bà La
Môn của ta đều không bì kịp. Người thì quá nhơ uế, người thì quá phiền phức,
không bằng vị sa môn này, chỉ dùng 14 nhóm đất bột mà rất sạch sẽ”.
Nghĩ thế rồi,
ông liền đến trước tôn giả Xá Lợi Phất, đảnh lễ dưới chân ngài, thành kính bạch
rằng: “Kính bạch Thánh Giả! Con hôm nay nguyện được làm đệ tử xuất gia của
ngài, cúi xin ngài từ bi nạp thọ cho con được mãn nguyện. Xin tôn giả giảng dạy
cho con về giới luật xuất gia để con tu học...”
Người Bà La Môn
từ đó luôn gần gũi hầu hạ thầy đúng như pháp, tinh tấn tu hành, đoạn trừ các
kiết sử phiền não, chứng pháp Vô Sanh, thành A La Hán lìa các cấu nhiễm trong
tam giới.
Phép tẩy tịnh
này do chính kim khẩu đức Bổn Sư Thích Tôn dạy các tỳ kheo phải thực hành. Nếu
không thực hành thì phạm lỗi. Có điều nên lưu ý là đừng nghĩ pháp này Phật chỉ
dạy chư tỳ kheo, còn sáu chúng kia Phật không dạy thì không tuân hành. Nghĩ như
vậy thì thật là sai lầm. Vì chúng tỳ kheo là thượng thủ trong thất chúng nên
Phật dạy chúng tỳ kheo tức là xem như dạy cả thất chúng. Như trong một gia đình
có bảy người con, nếu có việc chi, người cha chỉ kêu đứa con cả mà dạy.
Tẩy tịnh, khử uế
chỉ là một, nhưng khi đại tiểu tiện xong, khi đến chỗ múc nước thì đọc
kệ:
Sự ngật tựu
thủy,
Đương nguyện
chúng sanh,
Xuất thế pháp
trung,
Tốc tật nhi
vãng.
Án, thất rị bà
hê tóa ha (3 lần)
Dịch:
Khi việc xong
đến lấy nước,
Nguyện cho tất
cả chúng sanh,
Vào pháp xuất
thế,
Nhanh chóng mà
đi qua.
Hai chữ “sự
ngật” chỉ việc đại, tiểu tiện đã xong. Hai chữ “tựu thủy” chỉ sự lấy nước dùng
để rửa chỗ nhơ uế. Luật dạy sau khi đại tiện xong, dùng giẻ lau chỗ ấy, đoạn
lấy nước dùng đất bột lau rửa. Đó là việc thời xưa, còn thời nay dùng giấy vệ
sinh, nhưng cũng không thể sạch được. Vì da chỗ giang môn (chỗ đại tiện có tính
đàn hồi có thể rút lại, nở ra nên có nhiều nếp nhăn nhúm, gọi là giang môn),
nếu không dùng nước tẩy tịnh thì không thể nào sạch được. Nhất là đối với phái
nữ, bộ phận âm thần, đại, tiểu tiện rất dễ dàng trữ đồ dơ uế, nên phải dùng
nước tẩy tịnh mới hợp ý trong Luật dạy.
Luận về người
Phật tử tu hành, thì tam độc là thứ đáng sợ cần phải cố gắng diệt trừ. Pháp Lục
Độ là pháp đáng tôn quý, cần phải thân cận và suốt đời siêng năng tu học, thực
hành. Lại còn phải cầu nguyện cho tất cả chúng sanh đều được nước pháp của Như
Lai để gột rửa những cấu uế từ vô thỉ.
Câu kệ: “Xuất
thế pháp trung, tốc tật nhi vãng”, tức là mong chóng ra khỏi luân hồi. Muốn
được mau chóng thoát khỏi sanh tử luân hồi, không gì hơn là nhất tâm niệm Phật,
cầu được vãng sanh về cõi nước Phật A Di Đà, chứng ngộ được pháp Vô Sanh, để
mình và người đồng thoát khỏi luân hồi.
* Khử Uế:
Khử là trừ bỏ,
Uế là chỉ cho phẩn uế. Nghĩa là sau khi đại, tiểu tiện xong, dù có giấy vệ
sinh, nhưng chỗ giang môn vẫn còn dính phẩn uế nên phải tẩy sạch. Lúc đại tiểu
tiện xong, đi lấy nước thì đọc kệ và chú tẩy tịnh. Nghĩa là lúc đang tẩy tịnh
thì đọc chú khử uế này:
Tẩy địch hình
uế,
Đương nguyện
chúng sanh,
Thanh tịnh điều
nhu,
Tất cánh vô
cấu.
Án, hạ nẵng mật
lật đế tóa ha (3 lần)
Dịch:
Rửa nhơ trên
thân,
Nguyện cho chúng
sanh,
Thanh tịnh điều
nhu,
Sạch hẳn tất
cả.
Hai chữ “tẩy
địch” nghĩa là rửa cho sạch. Hai chữ “hình uế” là chỉ đường đại, tiểu tiện. Hai
chữ “điều nhu”: điều nghĩa là điều hòa, nhu nghĩa là nhu thuận.
Trong Thành Thật
Luận nói: “Thanh tịnh điều nhu là tùy thuận theo phạm hạnh vậy”, bởi vì ba
nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh không nhơ uế, tánh của nó vẫn điều nhu cho nên
nói là rốt ráo không nhơ bẩn.
Hai chữ “tất
cánh” là ý nghĩa cùng tột, rốt ráo. Hai chữ “vô cấu” là xa lìa tất cả tội lỗi
không nhiễm trước.
Luận về thân
nghiệp đã thanh tịnh thì hình thể này không cấu uế, tâm được thanh tịnh thì
được pháp rốt ráo vô lậu.
Có hai mươi mốt
thứ tâm nhơ bẩn mà trong kinh Trung A Hàm nói:
1. Tâm nhơ tà
kiến.
2. Tâm nhơ ham
muốn phi pháp.
3. Tâm nhơ tham
muốn theo việc tội lỗi, tức là ác pháp.
4. Tâm nhơ chấp
theo tà pháp.
5. Tâm nhơ tham
trước.
6. Tâm nhơ sân
nhuế.
7. Tâm nhơ thích
ngủ nghỉ.
8. Tâm nhơ trạo
cử lăng xăng.
9. Tâm nhơ nghi
hoặc.
10. Tâm nhơ bị
sân phiền não buộc ràng.
11. Tâm nhơ có
lỗi lầm không phát lồ sám hối.
12. Tâm nhơ bỏn
xẻn, keo kiết.
13. Tâm nhơ tật
đố.
14. Tâm nhơ
khinh khi dối gạt người.
15. Tâm nhơ dua
nịnh người.
16. Tâm nhơ
không biết tự thẹn (có tội mà tự mình không biết hổ thẹn).
17. Tâm nhơ
không biết thẹn với người.
18. Tâm nhơ ngã
mạn.
19. Tâm nhơ đại
ngã mạn.
20. Tâm nhơ kiêu
ngạo.
21. Tâm nhơ
buông lung, không siêng tu thiện pháp.
Thế nên Phật tử
tẩy rửa phẩn uế trên thân là thanh tịnh bên ngoài, lại còn phải gột rửa các thứ
nhơ bẩn nội tâm. Có như vậy trong ngoài mới đều thanh tịnh, nên câu kệ thứ tư
nói: “Rốt ráo không còn dơ”.
Trong bộ Ký Quy
nói: “Vì Đức Phật dạy tất cả tỳ kheo đều phải tẩy tịnh, nên nếu y theo lời Phật
dạy mà thực hành thì sanh phước, nếu trái lời Phật dạy thì mắc tội.
Thế mà xứ Đông
Hạ này (chỉ Trung Hoa) từ lâu nay không đem pháp tẩy tịnh truyền dạy. Vì vậy
nếu có người bỗng đem pháp tẩy tịnh truyền dạy thì bị kẻ khác sanh tâm chê bai
rằng: ‘Đại Thừa không câu chấp tiểu tiết, Đại Thừa vẫn dung thông, không chỗ
nào là tịnh, không chỗ nào là nhơ uế. Trong bụng lúc nào cũng đầy dẫy đồ bất
tịnh, thì tẩy tịnh bên ngoài có ích chi?’
Than ôi! Đâu
biết rằng những lời trên đã phạm vào tội trái với từ ý của Phật, đồng nghĩa với
khinh chê giới luật. Nếu không tẩy tịnh thì nhận thọ sự lễ bái của người hay lễ
bái người đều mắc tội. Mặc áo, ăn cơm mà thân bất tịnh, không tẩy sạch nên bị
thiên, long, quỷ thần đều chán ghét.
Thế nên ở xứ Ngũ
Thiên Trúc, nếu người nào không tẩy tịnh, khi đi đến bất cứ nơi nào đều bị
người cười chê. Phật tử xuất gia là người có bổn phận hoằng truyền chánh pháp
của Như Lai, nối tiếp làm thạnh ngôi Tam Bảo. Thế nên cần phải đem pháp tẩy
tịnh này đặc biệt truyền dạy cho hàng Phật tử để được tăng phước đức. Đã là kẻ
nhàm lìa trần tục, xuất gia tu hành, vứt bỏ tất cả, mong đến cảnh tịch diệt,
thì phải hết lòng cung kính vâng theo lời dạy của đức Từ Phụ Thích Ca, không
được khinh chê lời dạy trong Tỳ Ni. Nếu vị nào không tin thì có thể y theo Luật
dạy, thực hành pháp tẩy tịnh này trong một thời gian năm hoặc bảy ngày, chừng
ấy sẽ biết cái lỗi không tẩy tịnh”.
Dịch giả thành
kính y theo Luật, dịch thuật về nghi thức cùng ý nghĩa và nguyên nhân vì sao
phải tẩy tịnh và khử uế, dù sự dịch này không rộng lắm.
Trong Luật và
truyện Ký Quy, cùng những lời giải thích của Pháp Sư Phật Oánh trong bộ Tỳ Ni
Nhật Dụng Thiết Yếu chú giải đã quá rõ ràng, nếu có nói thêm cũng thành thừa và
không thể hơn lời của Phật, Tổ, tiên hiền được. Nhưng sở dĩ có lời phụ này vì
dịch giả nhận thấy không an tâm, khi nhận thấy lâu nay hai giới Phật tử xuất
gia và tại gia không thực hành pháp Tẩy Tịnh (đối với chư thượng đức kỳ cựu,
quý đại lão hòa thượng, chư thượng tọa, dịch giả không dám liệt vào trong
trường hợp này. Vì quý ngài đều triệt để tuân hành theo đúng pháp tẩy tịnh và
còn chỉ dạy lại cho hàng hậu học).
Vì vậy, nếu nghe
nói hay xem thấy nghi thức tẩy tịnh khử uế đã dẫn bên trên, họ sẽ cho là phiền
phức, mất thời giờ. Nhất là đối với Phật tử tại gia thường bận rộn suốt ngày
với công việc gia đình đa đoan. Cho nên dịch giả thành kính y theo Mật giáo
dịch thuật ý nghĩa và hiệu lực công năng của Tịnh Pháp Giới Chân Ngôn “Án Lam”
để vị nào không thực hành được pháp tẩy tịnh thì thành kính hành trì chơn ngôn
để nương nhờ pháp lực của chơn ngôn, dù không tẩy tịnh vẫn được thanh
tịnh.
Vị nào hành pháp
tẩy tịnh luôn cả thực hành Tịnh Pháp Giới chơn ngôn càng quý và được chơn thanh
tịnh. Dịch giả thực hành như vậy thấy không tốn thì giờ gì cả. Khi sắp niệm
Phật, lễ Phật, thọ thực hoặc cầu kinh, xem kinh v.v... đều trì đúng 21 biến.
Dịch giả thấy trong Luật dạy, khi thọ trai phải rửa tay cho sạch sẽ. Nếu cầm
đến chiếc Tăng Già Lê cũng phải rửa lại. Tăng Già Lê là chiếc đại y, khi đụng
đến còn phải rửa tay lại thì các vật khác nên biết mức độ phải như thế nào. Do
đó, thật rất khó giữ gìn đúng phép, nên dịch giả thường trì chú Án Lam để mong
nhờ pháp lực của chơn ngôn cho được an tâm và thanh tịnh.
Tịnh Pháp Giới
Chơn Ngôn là một bộ chú trong Ngũ Bộ Chú. Theo Mật giáo, chỉ trì một chữ Lam
cũng được, không trì chữ Án cũng được. Có hai cách thực hành:
1. Quán tưởng
hình thức của chữ Lam: viết theo lối Phạn trên đỉnh đầu của mình. Khắp chữ Lam
có quang minh như hạt minh châu, hoặc như mặt trăng rằm. Khi quán tưởng, tay tả
kiết ấn Kim Cang Quyền (ngón tay cái bấm đốt thứ nhất của ngón áp út, còn gọi
là ngón vô danh, bốn ngón kia nắm ngón tay cái).
Ấn này có công
năng diệt trừ sự ô nhiễm, nội chướng, ngoại chướng, thành tựu tất cả các công
đức.
2. Những vị
thông thường chỉ cần trì niệm (ra tiếng hoặc thầm cũng được) hai mươi mốt biến,
cho thân tâm được thanh tịnh. Những lúc tọa thiền hay niệm Phật v.v... nếu tâm
hôn trầm, cũng có thể quán tưởng như vậy.
Nếu quán tưởng
hay trì tụng chơn ngôn Tịnh Pháp Giới này thì ba nghiệp đều được thanh tịnh,
tất cả tội chướng được tiêu trừ, lại còn thành tựu tất cả những việc thù thắng
khác như: Bồ Đề tâm kiên cố không thối thất, niệm Phật được nhất tâm bất loạn,
hoặc là nếu có phạm trọng tội, khi sám hối sẽ mau được tiêu tội, được thấy hảo
tướng v.v... Khi niệm chú này ở bất cứ nơi nào, cũng đều được thanh tịnh, y
phục không sạch thành y phục sạch sẽ, thân không tắm gội được sạch sẽ như tắm
gội. Dù dùng tịnh thủy để làm sạch vẫn không được chân thật thanh tịnh. Nếu
dùng chú Án Lam pháp giới tâm này để tẩy tịnh, thì sẽ được rốt ráo thanh tịnh.
Nên trong Mật Bộ ví dụ như dùng một hạt linh đơn có thể điểm sắt thành vàng.
Cũng thế, dùng một chữ Lam chơn ngôn này để gia trì thì biến biến nhiễm thành
tịnh.
Nên có bài kệ
như sau:
La tự sắc tiên
bạch,
Không điểm dĩ
nghiêm chi,
Như bỉ kế minh
châu
Trí chi ư đảnh
thượng,
Chơn ngôn đồng
pháp giới,
Vô lượng chúng
tội trừ,
Nhất thiết xúc
uế xứ,
Đương gia thử tự
môn.
Dịch:
Chữ La sắc trắng
đẹp,
Dùng dấu điểm
không để tăng vẻ nghiêm sức,
Như ngọc minh
châu nơi búi tóc,
Đem đặt nơi đỉnh
đầu,
Chữ Lam chơn
ngôn đồng pháp giới,
Vô lượng tội đều
tiêu trừ,
Tất cả những nơi
không sạch sẽ,
Cần phải gia trì
tự môn này.
Trong sách Phạn,
chữ La có thêm dấu chấm (điểm không) tức thành chữ Lam. Minh châu trên búi tóc
của Chuyển Luân thánh vương tức là một trong bảy thí dụ của kinh Pháp Hoa, phẩm
An Lạc Hạnh.
Nếu gặp trường
hợp ngoại duyên không đủ, nghĩa là không có nước để tắm gội, giặt giũ nên y
phục và thân thể không sạch sẽ, chỉ cần gia trì chữ Lam thì được sạch sẽ. Nếu
có đủ nước tắm gội và giặt y phục sạch sẽ mà trì tụng thêm chữ Lam này, trong
ngoài đều được thanh tịnh (dịch giả kính dịch theo bộ Hiển Mật Viên Thông Thành
Phật Tâm Yếu).