Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 9

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8018)
Phần 9


KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Phần 9

Bây giờ ông Duy Ma Cật lại nói thêm. Nói tất cả tâm tướng của chúng sanh là không cấu. Cũng như vậy đó là không cấu. Bây giờ vọng tưởng là cấu, mà không vọng tưởng là tịnh. Điên đảo là cấu, không điên đảo là tịnh. Bây giờ mình thấy rõ cái tu của mình chưa. Mình bỏ vọng tưởng là để làm chi? Để tịnh. Hết vọng tưởng là tịnh. Tịnh tức là giải thoát. Giải thoát tức là giác ngộ. Nếu còn vọng tưởng thì đó là cấu là nhơ. Điên đảo với vọng tưởng cũng gần nhau, là anh em thôi, phải không? Có vọng tưởng mới có điên đảo. Không có vọng tưởng, có điên đảo không? Cho nên chỗ khác Bát Nhã kết luận thì vọng tưởng điên đảo phải không? Hai cái đi chung. Nhưng đây thì phân riêng cho có thứ tự vậy thôi. Có vọng tưởng mới có điên đảo. Không vọng tưởng làm gì có điên đảo. Như vậy vọng tưởng điên đảo là cấu. Không vọng tưởng điên đảo là tịnh. 

Chuyện này thật là rõ như ban ngày. Chúng ta dù có giữ giới, giữ luật gì đi nữa, mà nếu cái ngã mình chấp nặng thì giữ giới, giữ luật đó có giải thoát được không? Thí dụ: tôi nói như giới luật thường của mình đó. Tỳ Kheo không được cuốc đất. Tỳ Kheo không được làm cho cây cỏ bị hại. Thí dụ như không được bứt cỏ tươi... Mình giữ luật đó hết sứcnghiêm trang. Nhưng mình thấy người này, thấy người kia không giữ được như mình, rồi mình khinh họ. Như vậy còn ngã không. Nếu còn ngã thì giải thoát nổi không? Giải thoát là chỗ không có ngã, dù cho mình lăn lộn giữa quần chúng mà cái chấp ngã mình không còn thì mình được thanh tịnh. Còn nếu mình làm cái gì, ngồi trong đạo tràng mà cái ngã mình cũng cao vòi vọi đó, cũng là cấu như thường. Chủ yếu là phải đừng chấp ngã. Bởi vì tất cả phiền não, ngã mạng, nóng giận, kiêu căng v.v... đều phát nguồn từ chấp ngã mà ra, phải không? có khi nào thấy mình không ra gì hết, mà người ta động tới mình giận không? Nghĩa là thấy ta quan trọng, động tới cho nên nổi sân liền. Như vậy mọi phiền não gốc từ cái ngã. Nếu không ngã thì còn gì phiền não. Không phiền não thì không phải tịnh là gì? Còn nếu còn ngã tất nhiên còn có phiền não. Còn phiền não cho nên gọi là cấu. Như vậy lời giảng của ông Duy Ma Cật rất là chí lý, chỉ thẳng cái thực cho mình biết. Chớ đừng có chấp tướng. Nhiều khi mình chấp tướng. Vì trong kinh Phật cũng như trong luật Phật, Phật làm cái gì nó có ý nghĩa ngay trong thời đó. Rồi mình không biết, mình lấy ý nghĩa ngay trong thời đó, đem qua thời khác mình nhìn. Tôi nói thí dụ: Như luật Tỳ Kheo của chúng ta, trong đó phần y và bát hết bao nhiêu? Nếu nói y bát hết 1/3 số giới luật rồi. Bây giờ y thì mình cũng không mang ba y. Bát thì mình cũng không quảy bát đi khất thực. Như vậy làm sao? Thí dụ: Như bây giờ chúng taThiền viện, hay là một ngôi Già Lam. Chúng ta tu không có quấn y, không mang bát đi khất thực. Với một người quấn y mang bát khất thực đúng y như trong luật dạy, họ nhìn chúng ta họ khen hay họ chê? Họ chê. Mấy ông thầy này không giữ giới, không giữ luật. Nếu chúng ta ở trong Thiền viện, ở trong ngôi Già Lam, chúng ta sống rất là bình dị, đơn giản, cái ngã chúng ta mất đi. Như vậy đối với người mang bình bát, quấn ba y đi khất thực mà cái ngã còn, thì ai hơn ai. Ai hơn ai? Như vậy cái trọng tâm không phải là giữ cái hình tướng. Mà trọng tâm phải phá được cái gốc ở trong. Gốc ở trong là cái ngã phải không? Vì vậy mà sự tu của chúng ta phải thấu tường tận gốc rễ của nó. Hiểu vậy rồi, hiểu tại sao mà tinh thần Đại thừa lại không quan trọng những hình thức. Bởi vì hình thức là tướng bên ngoài, tạm trong lúc cần đó. Còn chủ yếu là bên trong. Làm sao phá được cái ngã đó mới là gốc. Bởi vậy chúng ta tu phải thực. Nói vậy không phải một chiều. Nếu chúng ta tu, chúng ta không quấn y, không mang bát đi khất thực, mà chúng ta lại thêm cái ngã lớn nữa thì trúng hay trật? Nếu mà không chấp tướng mà còn chấp ngã thì lại còn trật hơn nữa, phải không? Tuy không chấp tướng mà chấp ngã thì đó là bệnh thôi. Cho nên khi không chấp tướng thì cũng đừng chấp ngã nữa mới trúng, phải không? Chớ không chấp tướng mà chấp ngã lại càng trật. 

Đây thêm một đoạn, ông nói rằng tất cả pháp sanh diệt không dừng như huyễn, như điện. Các pháp không đối đãi cho đến một niệm cũng không dừng. Các pháp đều do vọng kiến, như mộng, như ánh nắng, như là mặt trời trong nước, như là bóng trong gương v.v... đều do vọng tưởng sanh. Như vậy nếu ai thấy được các pháp như huyễn như hóa, như trăng trong nước, như bóng trong gương. Hằng thấy như vậy và biết tất cả đều do vọng tưởng sanh, thì người đó là người giữ giới, giữ luật. Tại sao vậy? Sở dĩ giới luật cấm là không cho chúng ta tham ngũ dục. Không cho chúng ta nhiễm ngũ dục. Không cho chúng vì ngũ dục mà tạo nên tội lỗi. Bây giờ chúng ta thâý ngũ dục như là bóng, như là trăng đáy nước, như là huyễn hóa thì còn gì mà tham. Không tham thì còn gì mà nhiễm. Thấy đúng như vậy đó là mình giữ giới, giữ luật rồi. Còn mình thấy nó thật thì chưa được trọn vẹn. Ngài cũng nói rằng nếu người nào biết được như vậy mới gọi là khéo hiểu. 

Như vậy đoạn trước ông chỉ cho chúng ta thấy được rằng tánh tội không thật. Từ tâm mà ra. Tâm cũng không thật nữa, cho nên tâm không thật, tội không thật đều trở về như. 

Rồi đến đoạn hai chỉ rằng, tất cả tâm cấu thì ngã củng là cấu, chúng sanh cấu đó. Tâm mà nhơ thì chúng sanh cũng nhơ. Tâm mà sạch thì chúng sanh sạch. Cho tới vọng tưởng là nhơ. Hết vọng tưởng là sạch v.v... Như vậy chỉ cho thấy rằng tất cả tội gốc từ tâm mà ra. Nếu tâm thanh tịnh thì muôn tội theo đó đều hết. 

Thứ ba là cho chúng ta thấy tất cả pháp như huyễn như hóa. Biết rõ các pháp như huyễn như hóa, không kẹt, đó là người chân chánh giữ luật. Khi các thầy Tỳ Kheo này nghe ông Duy Ma Cật nói như vậy rồi, họ lãnh hội được, họ phát tâm bồ đề

Phật bảo La Hầu La

( Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật

Ngài La Hầu La bạch Phật rằng: 

( Thế Tôn con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ thuở xưa ở thành Tỳ Xá Ly có các ông trưởng giả đến chỗ của con cúi đầu làm lễ, hỏi con rằng: 

( Vâng! Ngài La Hầu La. Ông là con của Phật đã bỏ ngôi Chuyễn Luân Thánh Vương đi xuất gia, hành đạo. Xuất gia đó có lợi ích gì? Con liền đúng như pháp vì họ mà nói lợi ích của công đức xuất gia

Khi ấy ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng: 

( Vâng! Ngài La Hầu La. Không nên nói cái lợi công đức của người xuất gia. Vì cớ sao? Không có lợi, không có công đức, ấy là xuất gia

Nghe ngược ngạo quá phải không? Như vậy tới chỗ này mình có hai cái nhìn. Cái nhìn của Ngài La Hầu La là nhìn trên hình tướng. Nếu người xuất gia sẽ có những lợi gì, được những công đức gì? Trong kinh Phật cũng đã nói cái lợi ích đó chỉ là cái ích lợi đối đãi của tướng hữu vi thôi. Chớ không phải là nói tới ích lợi của cái vô vi

Còn ông Duy Ma Cật thì ông nhìn người xuất giađi thẳng về chỗ vô vi, không có tướng. Không có tướng thì nói gì có lợi, có công đức

Chỗ này giống với chỗ mà vua Lương Võ Đế hỏi Ngài Đạt Ma, phải không? Nói ông tạo chùa, cất chùa và nuôi Tăng chúng v.v... rất là nhiều. Vậy có lợi ích, có công đức gì không? ngài liền nói: 

( Không! Không có công đức

Như vậy cái nhìn của ôg Duy Ma Cật gần với cái nhìn của nhà Thiền. Bởi vì nói công đức, nói phước đức thì chỉ là cái hình tướng sanh diệt. Còn chỗ chân thật đó ra ngoài các tướng đối đãi. Cho nên nói là không. Ở đây ông nói cũng giống hết như vậy. Nghĩa là nếu nói xuất gia thì không có lợi, không có công đức. Nhưng mà bây giờ đa số người nói xuất gia không lợi, không công đức thì họ có muốn xuất gia không? Có lợi. Có công đức gì mới ham tu chớ. Không lợi, không công đức tu làm chi. Nhưng đây là lẽ thực, bởi vì đi tới chỗ vô vi giải thoát thì không còn nằm trên giả tướng thì làm gì thấy có lợi, có công đức. Cho nên sau mới nói thêm cho rõ. 

Pháp hữu vi thì có thể nói có lợi, có công đức. Còn phàm người xuất gia là vì pháp vô vi. Mà trong pháp vô vi thì không có lợi, không có công đức

Như vậy ông xác nhận, sở dĩ ông nói không có lợi, không công đức là đứng trên mặt vô vi mà nói, phải không? Thí dụ: Như mình mình nói bây giờ người xuất gia thì khỏi bận chuyện gia đình, khỏi lo con cái nên rảng rang tu hành. Cái lợi đó toàn là cái lợi của hình thức thôi, phải không? Chớ đâu có phải là đi thẳng trong vô vi. Chủ yếu người xuất gia có người nào xuất gia mà chỉ muốn được cái phước tương đối đâu, phải không? Đề muốn giải thoát. Mà giải thoát tức là đi tới chỗ vô vi. Cho nên đây là nói thẳng mục đích, cứu cánh đó. Đến trường hợp thứ hai. 

La Hầu La, người xuất gia đó, không kia, không đây, cũng không trung gian. Lìa 62 kiến chấp ở nơi Niết bàn, người trí thọ nhận (tức là chỗ thọ nhận của người trí) là chỗ sở hành của hàng thánh giả, hàng phục chúng ma (như vậy thì người xuất gia là người thoát khỏi ngã, chúng sinh. Bỉ thử tức là ngã, nhơn, chúng sanh đó) và lìa tất cả kiến chấp hừng ở nơi Niết bàn. Độ được 5 đạo (độ tức là qua được ngũ thú đó. Ngũ đạo hoặc ngũ thú cũng giống nhau. Qua được ngũ thú tức là không còn sanh trong năm đường đó nữa.). Trong sạch được ngũ nhãn, được ngũ lực, đứng trên ngũ căn (hay thành lập được ngũ căn). Không có não hại người khác. Lìa các tạp ác, dẹp pháp các ngoại đạo. Vượt khỏi các giả danh. Ra khỏi chỗ bùn lầy. Không bị trói buộc. Không có ngã sở. Không có sở thọ. Không có bị nhiễu loạn. Ở thì ôm lòng vui vẻ, bảo hộ cái ý kia. Tùy thuận Thiền định, lìa các lỗi ác. Như vậy đó là tinh thần xuất gia. Nếu hay như vậy đó, ấy là người chơn xuất gia

Chơn xuất gia ở đây ông nói là mình phải rời cả ngã và ngã sở và hằng đứng trên bờ Niết bàn. Hằng vượt ra khỏi mọi trói buộc, nhiễm ô và hằng ở trong Thiền định. Như vậy mới thật là xuất gia

Xuất gia chúng ta nhớ có mấy nghĩa? Một là xất thế tục gia. Hai là xuất phiền não gia. Ba la xuất tam giới gia. Như vậy chỗ này ông nói là xuất cái gì gia? Tức là chúng ta phải ra khỏi tam giới, phải đứng trên bờ Niết bàn. Chớ không phải chỉ ra khỏi nhà thế tục thôi. Bây giờ phần nhiều chúng ta hay nói xuất gialợi íchxuất gia ở trong nhà thế tục. Từ nhà thế tục mà ra khỏi có lợi ích gì? Chớ mà ít có xuất phiền não gia. Xuất tam giới gia mà xuất phiền não gia là hai chỗ mà ở đây ông muốn nói. Như vậy tất cả mọi người nếu chúng ta nhìn lại,nói rằng chỉ khi nào bỏ nhà cha mẹ vào chùa là xuất gia. Nếu hiểu ngang chừng đó thì đời tu chưa có giá trị gì, phải không. Nếu chưa phá được phiền não, mình chưa ra khỏi tam giới tức là chưa được giải thoát, thì xuất gia chưa đúng nghĩa xuất gia. Muốn đúng nghĩa xuất gia là phải dẹp sạch phiền não, phải được giải thoát sanh tử. Ra khỏi tam giới tức là giải thoát sanh tử. Đó mới là mục đích cứu cánh của người xuất gia. Cho nên ở đây ông nói chơn chánh xuất gia là phải như vậy đó. Như vậy đó là làm cho sáng tỏ thêm nghĩa xuất gia của người tu. Chớ không phải là ông nói lý suông. 

Khi đó ông Duy Ma Cật bảo các Trưởng giả rằng: “Các ông nên ở trong chánh phápphát tâm xuất gia. Vì cớ sao? Vì Phật ra đời rất khó được gặp. 

Như vậy thì các ông nên ở trong chánh phápphát tâm xuất gia. Tại sao? Bởi vì khó gặp được đức Phật ra đời. Các ông Trưởng giả mới nói rằng (Trưởng giả này là Trưởng giả tử là con đó, chớ không phải Trưởng giả lớn. 

Các Trưởng giả này thưa rằng: 

( Thưa cư sĩ, chúng tôi nghe Phật nói cha mẹ không cho thì không được xuất gia (tức là cha mẹ không cho phép thì không được xuất gia). 

Ông Duy Ma Cật nói: 

( Đúng vậy! Các ông liền phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Âúy là xuất gia, ấy tức là thọ giới cụ túc

Ở đây ông không nặng về hình thức xuất giacạo tóc, vô chùa phải không? Ông bảo xuất gia là phải phát tâm cầu thành Phật, đó là xuất gia, đó là thọ giới cụ túc. Bởi vì tất cả người xuất gia có người nào không cầu thành Phậtxuất gia không. Phải không? Cầu thành Phậtmục tiêu cứu cánh. Như vậy mình nhắm vào mục tiêu cứu cánh đó mà làm mà tiến. Đó gọi là xuất gia

Khi ấy 32 người con ông trưởng giả đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Cho nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy. 

Như vậy chúng ta có thể tóm lại cho dễ nhớ. Ở đây Ngài Duy Ma Cật muốn nói cái nghĩa xuất giađi thẳng vào giải thoát, là pháp vô vi. Chớ không phải xuất giapháp hữu vi. Cho nên khuyên Ngài La Hầu La đừng lấy cái lợi của pháp hữu vi mà nói với các con ông Trưởng giả. Rồi tới đoạn kế muốn giảng trạch rằng người xuất gia là người phá được tất cả phiền não ra ra khỏi nhà tam giới. Đứng ở trên bờ Niết bàn. Đó mới là người chân thật xuất gia. Như vậy chúng ta thấy ý nghĩa xuất gia này thật là thâm sâu. Kế đó là Ngài A Nan. Ngài A Nan thật là đáng thương. 

Phật bảo Ngài A Nan

( Ông đi đến thăm bênh ông Duy Ma Cật

A Nan bạch Phật rằng: 

( Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ thuở xưa Thế Tôn thân có chút ít bệnh, phải dùng sửa bò. Con liền mang bát đến nhà đại Bà La Môn đứng ở dưới cổng (hay là dưới cửa. Đứng ở dưới cổng vì nhà người có có cái cổng lớn ở trước. Đứng ở dưới cổng tức là ngay trước cửa nhìn vô, chờ người ta thấy để người ta kêu vô cho). Khi ấy ông Duy Ma Cật đến hỏi con rằng: 

( Vâng! Ngài A Nan, vì sao mà sáng sớm mang bát đến đứng đây (chữ này là “Triêu” chớ không đọc là “Triều” được)? 

Con nói rằng: 

( Này cư sĩ! Thân Thế Tôn có chút ít bệnh phải dùng sửa bò. Cho nên tôi đến đứng đây. 

Ông Duy Ma Cật nói: 

( Thôi! Thôi! A Nan chớ có nói lời ấy. Thân Như Lai là thể Kim cang. Các cái ác đã dứt. Các cái thiện đã đầy đủ. Làm gì mà có bệnh, làm gì mà có não. Thôi lặng lẽ đi A Nan. Chớ có chê bai Như Lai (đuổi đi). Chớ có khiến những ngoại đạo nghe lời thô này. Không khiến cho những chư Thiên có đầy đủ oai đức và những vị Bồ tát ở các cõi Tịnh độ khác được nghe lời này. Thôi ông đi đi (lặng lẽ đi đi. Chớ đừng để ngoại đạo nghe hoặc chư Thiên hoặc các vị Bồ tát ở cõi khác nghe. Cái này xấu hổ lắm.). A Nan! Vị Chuyển Luân Thánh Vương chỉ có một chút ít phước mà còn được không bệnh. Huống nữa là Như Lai được vô lượng phước đức, khắp cả thù thắng thay (Khắp thắng giả tai tức là khắp hết thù thắng đó ư!) Hãy đi A Nan! Chớ khiến chúng tôi nhận ra lời này mà sanh hổ thẹn (Hay là chớ khiến cho chúng tôi phải sinh ra hổ thẹn)! Ngoại đạo thậm chí nếu nghe được lời này thì khởi nghĩ thế này: Sao gọi là thầy. Tự mình bệnh mà không có thể cứu được mà hay cứu bệnh cho người khác. Như vậy thôi đi A Nan. Ông đừng để cho chúng tôi hổ thẹn

Tại sao hổ thẹn? Vì ngoại đạo thậm chí nghe nói lời này thì họ liền đặt câu hỏi. Tại sao mà Thầy là Thầy mà bệnh mình không cứu được mà nói cứu bệnh người khác. Vô lý phải không? Bởi vậy tôi nói mấy chú tu ráng. Bệnh có hai thứ: Bệnh thân và bệnh tâm. Thân cũng khuyên Phật tử tu hành. Ngồi thiền ít bệnh mà mình bệnh rề rề. Thật là xấu hổ cho tôi biết mấy, phải không? Mỗi khi nói với Phật tử, tôi nói người ngồi thiền ít bệnh mà mấy chú cứ rề rề, rề rề hoài. Thực là điều tủi nhục cho tôi, phải không? Tôi nói ít bệnh, mấy chú ngồi thiền giỏi thì ít bệnh. Chớ thầy nói ngồi thiền ít bệnh, mà mấy thầy đây đêm nào cũng ngồi thiền mà thầy nào cũng rên bệnh hết thì có phải xấu hổ cho tôi không? Đó là nói về thân. 

Nói về tâm, mình là người tu. Mình nói tu là để diệt phiền não, để hết khổ đau, phải vậy không? có người nào nói tôi tu là tôi nuôi phiền não. Đâu có ai nói vậy. Đã nói là diệt phiền não thì ít ra vào chùa ở 5 tháng, 10 tháng cũng thấy mấy thầy cười hoài mới phải chớ. Hết phiền não. Còn nếu không hết cũng bớt phiền não rồi. Chớ ít bữa thấy người này sân. Ít bữa thấy người kia quạu. Ít bữa nữa thấy người kia khóc. Như vậy còn phiền não không? Nói rằng tu để diệt phiền não thì cũng chưa có nữa. Nếu mình chưa diệt được phiền não mà dạy người ta diệt phiền não là làm sao. Được không? 

Bởi vậy nhiều khi tôi nói tôi xấu hổ khi có mấy người Phật tử nói: “Thầy con hôm trước giận mấy ông điệu, muốn bỏ đi. Tụi con lại năn nĩ hết sức Thầy mới ở lại”. Nghe vậy có xấu hổ không? Nếu Thầy không có phiền não thì Thầy đâu có bỏ đi. Mà Thầy bỏ đi tức là Thầy phiền não quá. Nhờ Phật tử an ủi Thầy mới bớt phiền não. Như vậy khi phiền não của Phật tử, họ khổ sở, họ tới họ nhờ Thầy an ủi cho bớt. Rồi bây giờ Thầy phiền não thì nhờ Phật tử tới an ủi lại. Như vậy mình và Phật tử có hơn bao nhiêu không? Kiểm lại coi hơn bao nhiêu? Như vậy cái đó là để thấy xấu hổ của người tu. Mình tu phải là người để an ủi, để dạy dỗ, để khuyên lơn họ. Mà muốn an ủi, dạy dỗ, khuyên lơn họ, cái đó mình đã qua rồi, phải không? Qua rồi mới dạy họ chớ. Nếu mình chưa qua, mình bảo họ làm, thì điều đó thực là... theo thế thường là đổi công cho nhau đó. Bữa nay họ phiền não tới mình an ủi. Mai mình phiền não thì họ tới an ủi. Đổi qua đổi lại chớ không ai hơn ai hết. Như vậy không có nghĩa là Thầy nữa. Cho nên mấy chú ráng. Nhiều khi tôi thấy có những lúc muốn bực, muốn la lận. Mà nghĩ nếu la mấy chú nói mình sân, phải không? Còn không la thì mấy chú cứ tưởng làm như vậy là hay. Cứ nay chú này rên, con bệnh quá. Mai chú kia rên, bệnh quá, ngồi thiền không nổi. Như vậy tại sao không gan. Đó rồi thêm một cái, ít bửa chú này phiền não chú kia. Chú kia phiền não chú nọ. Như vậy thiệt là... đi tới đây để cốt dứt trừ phiền não, mà nói bị phiền não. Vô lý quá! Bị thì bỏ đi. Bị phiền não thì bỏ đi phức đi cho rồi. Khỏi thưa hỏi cho mất thì giờ. Nhưng mà không chịu, cũng ôm đó để đi thưa, đi trình. Như vậy mới thấy rằng chưa gan, chưa dám dứt khoát. Chớ tất cả những cái đó là những cái mình bỏ được dễ ợt chớ gì. 

Thí dụ: Bây giờ huynh nào đó nói hơn mình hoặc chỉ trích mình không đúng. Họ chỉ trích không đúng, thì họ thấy sai, họ thấy bậy, bỏ qua cho rồi, phải không? Thưa kiện làm chi cho mất thì giờ. Đó là những điều mà tôi nói lẽ thực như vậy, đó mà cũng đi thưa. Dễ nổi giận không? Nổi giận mà nạt thì... Muốn nạt là nạt để cho thấy cái đó không xứng đáng. Lý đáng là mình đã qua rồi mà còn mang lại làm gì. Nhưng nếu nạt thì nói Thầy còn sân, cũng còn phiền não. Thôi bỏ qua đừng giận. Đó là những cái mấy chú thấy, nghĩa là sự thực của tu đó. Nó là gốc để mình đi tới chỗ giải thoát. Gốc giải thoát mà mình không chịu ôm cái gốc đó. mình cứ vin những cành phiền não, những lá phiền não mà mình mệt nhọc với nó làm chi, phải không? bởi vậy mình phải gan. Gan dạ một chút mới có thể tiến được. Tôi khoe với người ta, tôi nói tôi hồi xưa bệnh phổi, trị chưa được hết lắm mà tôi ngồi thiền riết hết. Bây giờ mấy chú ho khẹt khẹt 3,4 bữa, lại thưa thầy chắc con bệnh phổi rồi. Tôi rầy, tôi nói không có bệnh phổi đâu mà sợ. Nói vậy mấy chú nói mình không thương, phải không? Thành ra nó khó thật. Còn nếu người nào ngồi thiền rồi ít bữa ho cũng la bệnh phổi hết. Như vậy lối tu mà mình nói với thiên hạ trở thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn ngay trong hàng ngũ của mình phải không? Cho nên mấy chú tập gan một chút để giữ uy tín. Không phải tôi nói giữ uy tín suông mà chính là để cho mấy chú có một sức chịu đựng, thắng được những cơn bệnh nhỏ và gan dạ trong cuộc tu hành, chớ đừng yếu đuối. Yếu đuối rồi trở thành mâu thuẫn với việc làm của mình. Đó là tôi nói câu ông thầy mà ổng còn bệnh thì làm sao cứu được người bệnh khác, người khác bệnh, phải không? Vậy mấy chú muốn khi nào khuyên lơn ai thì nhớ dòm lại mình coi đã. Mình bệnh nhiều, bệnh ít. Nếu mình gần hết bệnh thì khuyên họ dễ. Còn mình bệnh như họ, e rằng khuyên mắc cỡ lắm. Hổ thẹn lắm đó. 

Phải lén đi mau chớ khiến cho người ta nghe. Phải biết! A Nan thân Như Lai tức là pháp thân không phải thân tư dục. Phật là bậc Thế Tôn vượt qua cả tam giới. Thân Phật không có lậu, các lậu đã dứt (lậu tức là mầm phiền não làm rơi trong tam giới đã dứt). Thân Phật là vô vi, không có rơi vào các số (số tứccác loại. Loại người bậc này, bậc nọ). Thân như thế ấy thì nào có bệnh gì. Đâu có bệnh gì. 

Như vậy ở đây biểu Ngài A Nan phải lén đi cho nhanh, chớ đừng để cho người ta nghe. Tại sao vậy? Vì ông phải biết thân Phật là pháp thân. Pháp thân là thân đã vượt ra khỏi tam giới. Cái thân đó nó là vô vi, nó không còn bệnh gì nữa hết. 

Bạch Thế Tôn! Khi ấy con thật là hổ thẹn. Được gần gũi Phật mà có thể nghe lầm hay sao? 

Như vậy lúc đó ông hổ thẹn quá! Con bị đuổi đi hoài, cho nên tự tủi. Rồi không biết mình gần Phật mà không biết mình có nghe lầm không? Phật nói Phật bệnh. Bây giờ mình đi xin sữa cho Phật mà ổng đuổi như vậy đó. vậy mình có nghe lầm chăng? 

Nhưng liền khi ấy ở trong không trung có tiếng: Này! A Nan! Như lời của cư sĩ nói. 

Như vậy xác nhận thêm nữa. Trong đó xác nhận ông cư sĩ nói đúng

Chỉ vì Phật muốn ra khỏi đời ngũ trược ác thế mà hiện pháp này để độ thoát chúng sanh

Hiện cái pháp này là hiện trong cảnh còn có già, còn có bệnh, còn có tử đó, để độ thoát chúng sanh

Vậy thì hãy đi A Nan. Ông nhận lấy sữa chớ có hổ thẹn

Bạch Thế Tôn! Ông Duy Ma Cật trí tuệ biện tài như thế. Thế nên con không có dám đến thăm bệnh ông. 

Như vậy đến chỗ chót này là nói thẳng quan niệm về thân Phật. Hàng Nhị Thừa quan niệm về thân Phật thế nào? Hàng Bồ tát quan niệm về thân Phật thế nào? 

Hàng Nhị Thừa quan niệm thân Phật là thân có 32 tướng tốt hiện ở thế gian. Cho nên chúng ta đọc sử mà muốn tìm sự thật thì các phần trong kinh sử của Nguyên Thủy rất là xác thực. Còn nếu chúng ta đọc sử mà lấy những phần ở trong giáo lý Đại Thừa này thì sử đó thuộc về lý tưởng không xác thực. Tại sao vậy? Tại vì bên kia nhìn Phật là thân hiện hữuthế gian này, có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp v.v... Thân đó là thân Phật. 

Nhưng bên tinh thần Đại thừa thấy Phật là pháp thân. Pháp thân là thể kim cương, bất sanh, bất diệt. Ở thế gian có gì goi là cứng nhất? Đó là kim cương. Cho nên dùng chữ kim cương làm thí dụ. Vì thân Phật là không sanh không diệt. Đó là pháp thân

Như vậy một bên nhìn thân Phật hiện tại gọi là báo thân hay là ứng thân. Còn bên kia nhìn về pháp thân. Pháp thân là cái thân lý tưởng chớ không phải thân cụ thể trong khi Phật còn ở Ấn Độ. Nhớ rõ như vậy. Bên đây nhìn là báo thân hay là ứng thân cho nên thấy có bệnh. Rồi đi xin thuốc trị bênh. Còn bên kia nhìn Phật là pháp thân. Pháp thân thì không có tướng. Không có tướng làm sao có bệnh. Không có bệnh mà nói là đi xin thuốc trị bệnh là chuyện vô lý

Như vậy hai vị, mỗi vị nhìn khác nhau, mình nói ai đúng? Ai cũng đúng hết. Vì một bên nhìn về báo thân, bên nhìn về pháp thân, hay bên nhìn về ứng thân, bên nhìn về pháp thân. Cứu cánh của người tu là mình phải đạt được pháp thân. Bởi vì ứng thân hay báo thân là tướng sinh diệt. Có nó, dù nó đẹp nhưng rồi cũng phải hoại, phải không? Nếu tu rồi hưởng trong mấy chục năm, rồi hoại, thì cái đó chưa xứng đáng. Cho nên chúng ta tu là phải đạt được pháp thân bất sinh, bất diệt. Đó mới là cái cứu cánh, cái mục đích của người tu. 

Như vậy chỗ cứu cánh của người tu là phải đến pháp thân. Pháp thânlý tưởng cứu cánh của mình. Chớ không phải là ứng và báo. Cho nên bên này nhìn về chỗ cứu cánh sau cùng. Bên kia nhìn về cái tướng hiện hữu. Hai cái khác nhau. Tuy khác nhưng rồi cũng từ cái này mà đạt đến cái kia. Như mình bây giờ đang mang thân này là thân sinh diệt. Nhưng bây giờ muốn đạt được pháp thân, mình bỏ cái sinh diệt này được không? Cũng không được. Cho nên từ tướng sanh diệt để tiến tới chỗ vô sanh, đó mới đúng với chân thật. Như vậy qua phần của Ngài A Nan. Bây giờ tóm kết. 

Như thế 500 vị đại đệ tử mỗi vị hướng về Phật nói về duyên trước kia, để khen ngợi ông Duy Ma Cật, lời nói ông Duy Ma Cật. Đều nói rằng không kham đến thăm bệnh ông ấy. 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11644)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11970)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11122)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11358)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12075)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12570)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10774)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17995)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11736)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9959)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10181)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12360)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15355)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11253)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12119)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15379)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12011)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12423)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11194)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12096)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10626)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12564)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13179)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14849)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12698)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16587)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19678)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13116)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12274)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11866)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13544)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11962)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11852)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11645)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12776)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14529)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12625)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15670)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13633)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12912)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9883)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18025)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11176)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9087)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12188)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13063)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10321)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12204)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15325)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16616)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12230)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11493)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14281)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19714)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24621)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10701)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant