Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 15

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8538)
Phần 15


KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Phần 15

Sao gọi là không có huệ phương tiện bị trói? Nghĩa là Bồ Tát trụ nơi tham dục, sân nhuế, tà kiến... Các thứ phiền não mà gieo trồng các gốc công đức. Ấy gọi là không có huệ phương tiện bị trói. 

Quí vị thấy nghĩa là Bồ Tát cũng làm lợi ích cho chúng sinh mà còn tham dục, con sân nhuế, còn tà kiến... làm mọi việc phước đức, phước đức này, phước đức nọ. Thấy ai khổ mình giúp. Thấy ai bệnh mình giúp. Làm đủ thứ hết nhưng giúp thì gíup mà động tới nổi sân đùng đùng thì đó gọi là gì? Động tới thì cũng là tham. Thành ra làm việc công đức mà còn tham dục, còn sân nhuế, còn tà kiến thì làm việc công đức đó là không có trí tuệ phương tiện là bị trói buộc. Nhớ cho thật rõ mấy điều đó. 

Sao gọi là có trí huệ phương tiện được cởi mở? Nghĩa là lìa các tham dục, sân nhuế, tà kiến... các thứ phiền não mà gieo trồng các gốc công đức rồi hồi hướng về vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ấy gọi là huệ phương tiện giải thoát hay được cởi mở. 

Như vậy cũng làm việc công đức, hai bên đều làm công đức, mà một bên làm việc công đức còn mang trong lòng mình tham dục, sân nhuế, tà kiến. Còn một bên làm việc công đức mà dứt lìa những cái đó, rồi lại hướng về Phật đạo thì gọi là có trí tuệ phương tiện. Đó là được giải thoát

Văn Thù Sư Lợi, những vị Bồ Tát có bệnh kia nên như thế mà quán các pháp (phải quán các pháp như vậy đó). Lại nữa quán thân vô thường, khổ, không, phi ngã, ấy gọi là huệ. Tuy thân có bệnh mà thường ở trong sanh tử làm lợi ích cho tất cả chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết chán mỏi. Ấy gọi là phương tiện lại nữa quán thân, thân chẳng lìa bệnh, bệnh chẳng lìa thân. Bệnh ấy, thân ấy phải mới, không phải củ. Ấy gọi huệ. Dù thân có bệnh mà không hằng diệt. Ấy gọi là phương tiện

Đoạn này lại chỉ thêm cho chúng ta thấy là Bồ Tát cũng dùng những pháp vô thường, khổ, không, vô ngã của Phật dạy. Mình thấy rõ được lý vô thường, khổ, không, vô ngã, gọi đó là trí huệ. Tuy thấy như vậy mà thường Thanh Văn thấy vô thường, khổ, không, vô ngã thì liền thấy Niết Bàntịch tịnh, phải không? Rồi thích an trú nơi Niết Bàn. Còn Bồ Tát thấy vô thường, khổ, không, vô ngã mà thân này biết là thân có bệnh mà ở trong sanh tử để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, không biết mệt mỏi. Đó gọi là Bồ Tátphương tiện. Chớ không phải các Ngài thấy thân này là thật, là quí. Cho nên sanh ra rồi chết đi, họ muốn sanh lại vì họ quí thân. 

Còn một hạng người nữa là thấy thân này vô thường, khổ, không, vô ngã. Rồi biết nó quá tạm bợ, nó không có giá trị gì, rồi muốn bỏ luôn để nhập Niết Bàn. Đó là hai quan niệm của phàm phu và của Nhị thừa. Bồ Tát ngược lại biết rõ thân vô thường, khổ, không, vô ngã mà vẫn mang thân làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, không biết chán mỏi. Đó là tâm niệm của Bồ Tát. Hai cái khác nhau chỗ đó đó. 

Rồi lại nữa ở đây mới nói Bồ Tát phải quán thân. Thân không lìa bệnh. Quán thân, chữ thân trước là bảo mình quán thân. Cái thân này không lìa bệnh, rồi bệnh không lìa thân. Bệnh ấy, thân ấy không phải mới, không phải củ. Ấy gọi là huệ. Tại sao vậy? Bây giờ chúng ta xét thân này và cái bệnh, hai cái đó rời nhau không? Bệnh ở ngoài thân có hay là từ trong thân ra? Như vậy nếu bệnh không ngoài thân thì tức nhiên thân không lìa bệnh mà bệnh cũng không lìa thân. Như vậy bệnh và thân cũng không phải mới cũng không phải cũ. Sao vậy? Mới phát bệnh hồi nãy thì nói mới, phải không? Còn bệnh năm xưa gọi là cũ. Tại sao đây nói không phải mới, không phải cũ? 

Bởi nếu có thân là có bệnh. Tại sao vậy? Vì Phật đã dạy thân này là tứ đại hợp. Tứ đại hợp thì tứ đại có hợp nhau hay không? Tứ đại là chống nghịch. Mà chống nghịch là gốc bệnh. Cho nên có thân là có bệnh. Cái bệnh đó có sẵn hay là mới có? Có tứ đại hợp là có bệnh liền. Như vậy nó không phải mới rồi phải không? Nhưng tại sao không phải cũ? Nó không phải mới vì có htân là gốc bệnh, cho nên bệnh không phải là mới. Nhưng khi chưa đủ duyên thì nó không phát. Khi gặp duyên nó mới phát, cho nên không phải là cũ. Như vậy để thấy rõ rằng cái thân và bệnh cũng không phải mới, không phải cũ, không phải lìa nhau. Thấy được như vậy đó gọi là có trí tuệ

Dù thân có bệnh mà chẳng hằng diệt. Dù Bồ Tát biết rằng cái thân này là gốc của bệnh. Nhưng không muốn nhập Niết Bàn. Vì sao? Vì muốn còn thân mà giáo hóa chúng sinh. Vì chúng sinh mê muội. Thân giả tưởng là thật, khổ tưởng là vui... Mê muội như vậy. mình bây giờ được biết, mình biết rồi mà mình lại muốn tịch diệt thì ai dạy giùm họ, ai giáo hóa cho họ. Cho nên biết được như vậy rồi lý đáng các Ngài đủ điều kiện nhập Niết Bàn mà không nhập Niết Bàn. Ấy gọi là phương tiện. Phương tiện của Bồ Tát là như vậy. 

Văn Thù Sư Lợi, Bồ Tát có bệnh nên như thế mà điều phục tâm kia. Chẳng trụ ở trong ấy cũng lại chẳng trụ, chẳng điều phục tâm. 

Như vậy câu này nghe dễ hiểu không? Nói rằng nếu Bồ Tát có bệnh thì nên như thế mà điều phục tâm đó, nhưng mà chẳng trụ trong chỗ điều phục đó. Tại sao vậy? 

Vì sao? Nếu trụ chẳng điều phục tâm, ấy là pháp của người ngu. Còn nếu trụ ở điều phục tâm, ấy là pháp của Thanh Văn. Thế nên Bồ Tát không phải trụ ở nơi điều phục mà chẳng điều phục tâm. Lìa hai pháp này, ấy gọi là hạnh Bồ Tát

Chỗ này quí vị nghe cho kỹ để thấy cái cao thượng của Bồ Tát. Vì nếu Bồ Tát lo điều phục tâm của mình thì điều đó rất tốt, rất phải rồi. Nhưng mà cố chấp cái điều phục đó là cứu cánh, rồi cứ lo điều phục mãi, như vậy đó trở thành Thanh Văn, quên làm lợi ích cho chúng sinh. Còn nếu kẻ chưa bao giờ biết điều phục tâm thì kẻ đó là kẻ nào? Kẻ mà chưa bao giờ biết điều phục tâm thì gọi kẻ đó là kẻ gì? Kẻ ngu. Cái pháp của người ngu. Bởi vì tâm muốn gì thì họ chạy theo cái nấy. Điên đảo đủ thứ thì đó là cái pháp của người ngu. Thành ra Bồ Tát không kẻ ở hai bên đó. Không kẹt ở bên người ngu mà cũng không kẹt ở cố chấp điều phục mà quên làm lợi ích cho chúng sinh

Ở trong sanh tử không làm những hạnh ô uế. Trụ nơi Niết Bàn mà không hằng diệt độ. ấy là hạnh của Bồ Tát

Cái này thật là khó. Ở trong sanh tử, tức là sống trong sanh tử như mọi người. Cũng như chúng sinh mà không bao giờ làm hạnh ô uế. Hạnh ô uế như là tham, sân, si. Hay là phá trai, phạm giới. Gọi đó là hạnh ô uế. Trụ Niết Bàn mà không hằng diệt độ. Trụ Niết Bàn đây không phải là chấp. Trụ ở tâm thanh tịnh không có dấy động. Cái tâm hằng như như. Đó gọi là trụ Niết Bàn mà không hằng diệt độ. Tức là không phải nhập Niết Bàn bằng một cách mãi mãi không sanh trở lại. Đó là hạnh của Bồ Tát. Như vậy Bồ Tát tuy ở trong sinh tử mà tâm hằng được thanh tịnh như như. Tuy tâm hằng thanh tịnh như như mà không có ưng nhập Niết Bàn. Tức là không có đến chỗ vô sanh. Đó là hạnh của Bồ Tát

Không phải là hạnh phàm phu. Không phải là hạnh hiền thánh. Ấy là hạnh Bồ Tát

Câu này quí vị thấy dễ hiểu không? Không phải hạnh phàm phu thì mình hiểu rồi, mà không phải hạnh hiền thánh. Như vậy là sao? Bồ Tát có phải là hiền thánh không? Đây tôi thí dụ

Thí dụ như có kẻ phàm phu họ mê say rượu chè. Rồi có người tu giữ giới thanh tịnh, biết rượu chè là tội lỗi, tránh xa không bao giờ bén mảng đến. Người mê say rượu chè đó là kẻ xấu phải không? Còn người tránh xa rượu chè đó là người tốt. Người tốt tức là người hiền phải không? Như vậy một bên mê say, một bên xa lánh. Còn Bồ Tát không phải vậy. không mê say rượu chè nhưng có khi ngồi quán rượu để dạy cho người ta bỏ rượu. Như vậy đó là hạnh của Bồ Tát. Quí vị thấy nó khác hơn phàm phu ngồi quán rượu vì say rượi, vì mê rượu. Còn hiền thánh vì tránh, biết chỗ đó xấu, không bén mảng tới, thì đó là hạnh người tốt. Nhưng đây vẫn tới chỗ đó, không vì mê say mà vì giáo hóa họ. Cho nên nói hanh đó là hạnh Bồ Tát. Cái này thật là, đến đó mới dám làm nghe. Chứ đừng tưởng lấy cớ rằng tôi tu hạnh Bồ Tát, rồi sớm la cà quán rượu, chiều la cà thanh lâu. Nói tôi tới đây để giáo hóa họ. Nhưng giáo hóa ai chưa biết mà mình nghiền trước rồi. Cái đó là đại tội đó. Nên Bồ Tát tới đó mà không phải như tâm phàm phu. Như vây mới đúng là hạnh Bồ Tát

Không phải cái hạnh cấu. Không phải cái hạnh tịnh. Ấy là cái hạnh Bồ Tát

Không phải hạnh cấu (tức là hạnh nhơ nhớp). Cũng không phải hạnh tịnh. Ấy là hạnh Bồ Tát. Hạnh cấu là gì? Hạnh tịnh là gì? Hạnh cấu, thí dụ như những kẻ tham lam, nóng giận v.v... Hạnh đó là cấu hay tịnh? Đó là hạnh cấu, hạnh nhơ nhớp. Hạnh tịnh là những người không tham lam, không nóng giận, đó là hạnh tịnh. Nhưng Bồ Tát thì không phải cả hai cái đó. Bồ Tát có khi các Ngài la rầy, đánh đập. La rầy, đánh đập là vì cái gì? Vì để răn, để sửa những chúng sanh ngoan cố. Nhưng vì thương họ, la rầy, đánh đập. Cái hạnh la rầy, đánh đập đó cấu hay tịnh? Là cấu rồi phải không? Nhưng mà không ở trong lòng xấu, không phải vì tham vì sân. Vì vậy mà không phải cấu. Mà đã la rầy đánh đập rồi làm sao gọi là tịnh được phải không? Cho nên không phải là tịnh. Đó là hạnh của Bồ Tát. Thực ra hạnh của Bồ Tát là hạnh không thể lường được. Người phàm khó thấy, khó biết. Chúng ta luôn luôn thâý có hai bên. Ai xấu thì chúng ta thấy xấu. Ai tốt thì chúng ta thấy tốt. Thấy người xấu mình chê. Thấy người tốt mình khen. Hai cái đó hết sức rõ và cũng hết sức dễ. Còn hàng Bồ Tát này có khi thấy họ như xấu mà tâm họ không phải xấu. Rồi mình làm sao, mình khen hay mình chê? Đó là những điều mà gọi là hạnh Bồ Tát, là cái hạnh khó, hạnh nghĩ bàn, khó mà thấy tới được. 

Tuy qua khỏi hạnh của ma mà hiện hàng phục chúng ma. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Bồ Tát thì đâu còn bị nghiệp chướng sanh trong các loài ma vương hay quỷ thần. Nhưng các Ngài có khi cũng thị hiện làm những việc của quỷ thần, của ma vương để hàng phục chúng nó, chớ không phải tránh nó mãi mãi

Cầu nhất thế trí, không cầu phi thời. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Quí vị thây câu này dễ hiểu hay khó? Cầu nhất thế trí không cầu phi thời. Ấy là hạnh của Bồ Tát. Bởi vì nhất thế trí là trí biết tất cả. Hàng Thanh văn thì được nhất thế trí còn Phật thì gọi là gì? Là đạo chủng trí. Bồ Tát, các Ngài cũng cầu nhất thế trí nhưng mà không phải cầu phi thời. Nghĩa là cầu nhất thế trí để biết tất cả tâm địa và các pháp để giáo hóa chúng sinh. Chớ không phải cầu nhất thế trí để an trụ Niết Bàn, để thoát ly sinh tử cho bản thân mình. vì vậy mà nói không cầu phi thời. Đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy quán các pháp chẳng sanh mà chẳng nhập chánh vị. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Nghĩa là quán thấy các pháp khôngthực tính, do duyên hợp tự tánh là không. Mà tự tánh là không thì duyên hợp gọi là sanh. Duyên ly tán gọi là diệt. Cái sanh cái diệt đó không thực cho nên nói rằng thấy nó không sanh. Thấy không sanh mà không nhập chánh vị. Chánh vị đây là chỉ cho Niết Bàn. Niết Bànvô sanh. Tuy thấy các pháp không sanh mà mình không. Nhập chỗ không sanh. Đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy quán 12 nhân duyên, 12 duyên khởi mà nhập vào các tà kiến. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Nói rằng Bồ Tát quán 12 duyên khởi mà vào tà kiến. Bởi vì thường chúng ta học đạo thì pháp duyên khởipháp chính của người tu, của Thanh Văn, của Bồ Tát, do Phật dạy. Thấy các pháp do duyên sinh là thấy đúng chân lý. Thấy đúng lẽ thật. Còn nếu thấy có, thấy không, thấy phải, thấy quấy là thật thì đó là thấy tà kiến, phải vậy không? Vậy thì Bồ Tát lúc nào cũng thấy rõ các pháp là duyên khởi. Nhưng đối với chúng sinh phải dạy họ bỏ điều ác. Nói đây là điều ác thật phải bỏ đi. Đây là điều thiện thật phải ráng làm. Như vậy có tà kiến không? Điều ác, điều thiện là duyên hợp không thật, phải không? Nhưng mình vẫn nó nó thật, để bảo người ta tránh. Mình nói nó thật để bảo người ta làm. Như vậy có vào tà kiến không? Như vậy để hiểu cho thật rõ, chớ nhiều khi chúng ta chỉ nhìn có một chiều, mình thấy cái gì cũng duyên khởi tánh không, rồi nói cái gì cũng không không hết trơn. Rồi mấy người mới vào đạo, nói các pháp không thật, họ biết làm sao mà tu đây, phải không? Cho nên mình biết rõ các pháp duyên khởi tánh không, nhưng kẻ mới học đạo, thì phải chỉ thẳng rằng, đây là cái tội. Tội này là thật đó, chớ tạo sẽ bị đọa vào địa ngục. Đây là cái phước thật đó, nếu tu thì sanh thiên đường. Mình nói như khẳng đình thì có giống tà kiến không? Giống tà kiến. Mà chính đó là hạnh Bồ Tát vì làm lợi ích cho chúng sinh, chớ không nói theo cái thấy riêng của mình. 

Tuy nhiếp phục tất cả chúng sinh mà không có ái trước. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Tuy là mình nhiếp phục mình giáo hóa được tất cả chúng sinh mà mình không có mê chấp ở đó thì đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy ưa xa lìa mà chẳng y nơi thân tâm hết. Âúy là hạnh của Bồ Tát

Mấy câu này nghe lạ. Tuy là ưa xa lìa mà chẳng y nơi thân tâm hết. Ưa xa lìa tức là vì Bồ Tát thấy thân là không thật. Thấy thân là nhớp nhúa, là tạm bợ. Cho nên Ngài cũng thích xa lìa nó. Nhưng vì lòng đại bi muốn giáo hóa cho mọi người cùng thấy như mình, cùng được như minh, nên không để thân tâm này nó hết, vẫn để cho nó còn tiếp tục tái sanh để giáo hóa họ. Chó không phải vì thấy thân này vô thường không rồi, muốn xa lìa mãi mãi, nhập Niết bàn không còn tái sanh nữa. Bồ Tát biết điều đó, ưa điều đó, mà vì thương chúng sinh nên vẫn giữ thân tâm còn lại để giáo hóa họ. Đó là hạnh Bồ Tát

Tuy là đi trong tam giới mà không phá hoại pháp tánh. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Pháp tánh là gì? Tức là tánh thể của các pháp. Tánh thể của các pháp thật có không? Cái nhà có nó có thực tủa cái nhà không? Như vậy cái nhà không có thực thể cái nhà. Cái chuông không có thực thể cái chuông. Cái mõ không có thực thể cái mõ. Cho tới mọi người, mọi cảnh, đều là tướng lừa dối không có thực thể. Tất cả cảnh trong dục giới, không có thực thể, thì sắc giới, vô sắc giới cũng không có thực thể. Như vậy các Ngài làm hạnh Bồ Tát, tuy là qua lại trong tâm giớikhông pháp hoại pháp tánh. Tức là đi qua lại trong tam giới mà vẫn thấy rõ tam giới là không thực. Tam giớihư dối, thấy rõ như vậy. Đó là hạnh Bồ Tát. Chớ không phải như minh đi trong tam giới rồi mê, tới đâu tưởng thiệt tới đó. 

Như bây giờ mình ở trong dục giới này, mình thấy thiệt không? Như vậy mình có pháp hoại pháp tánh không? Chúng ta vào trong cõi nào thì chúng ta liền tháy cõi đó là thật. Đó là phá hoại pháp tánh. Còn Bồ Tát vào trong tam giới mà vẫn thấy tam giới không thật, không có tự thể, cho nên không phá hoại pháp tánh

Tuy hành nơi không mà gieo trồng các gốc công đức. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Học những cái này chúng ta phải nghiềm ngẫm cho thật kỹ. Nhiều khi mấy chú mới học đạo, nghe nói các pháp do duyên hợp, tánh nó là không, tội cũng không thật, phước cũng không thật v.v... Mà tội không thật, phước không thật thì làm phước làm gì. Rồi thôi nghêu ngao mà chơi. Như vậy đó là cái bệnh. Cho nên đây biết rõ các pháp tự tánh là không, nhưng mọi công đức vẫn không bỏ sót, vẫn không quên làm thì đó là hạnh của Bồ Tát. Nhớ như vậy. chớ để nhiều khi chúng ta học rồi cái học đó nó làm chướng ngại việc lành. Nên tôi thấm thiết nhất là câu mà đức Phật nói rằng, đức Phật còn mót từ cái phước xỏ kim. Còn chúng ta công đức cỡ nào mà nhiều khi thấy việc lành không muốn làm. Huynh đệ có việc gì nặng nhọc, họ làm không muốn nổi, kêu giúp một tay thì ngó lơ đi. Như vậy đó mấy chú nghĩ sao? Mình có phước hơn Phật không? Nghĩa là Phật còn xỏ kim gìum cho Ngài A Na Luật, khi Ngài không thấy đường xỏ kim để vá áo. Ngài than rằng: 

( Ai làm phước lại xỏ giùm cây kim cho tôi. 

Phật liền đi tới nói: 

( A Na Luật, đưa đây ta xỏ kim cho để bòn 1 chút phước. 

Mấy chú thấy Phật còn tiếc từng cái phước xỏ kim. Còn mình bây giờ tu hành chưa ra trò ra trống gì, mà những điều phước thiện để cho vui với nhau đó, mình còn không muốn làm thì thiệt là quá dở phải không? Đó là những điều Bồ Tát làm. 

Tuy hành vô tướng mà độ chúng sinh. Âúy là hạnh của Bồ Tát

Hành vô tướng tức là thấy tất cả pháp không có tướng thật. Thí dụ như chúng ta nhìn cái đồng hồ. Phàm phu cho đó là đồng hồ thật, có tướng tròn, tướng vuông, tướng đẹp, tướng xấu. Nhưng với con mắt trí tuệ của hành duyên giác thì thấy đồng hồ chỉ là một mới bộ phận rạp lại. Mếu mở tháo tung ra thì có còn gì là đồng hồ đâu. Từng bộ phận ráp lại đủ thì tạm gọi là đồng hồ. Mở tung ra thì không có đồng hồ thật. Như vậy các pháp có tướng gì thật đâu. 

Như cái nhà này, mình nói nó là cái nhà, hình chữ nhật hay là hình gì đó. Như sự thật là hình chữ nhật, hay là nó có thướng thật là hình thế này thế kia không? Chẳng qua là một mớ duyên ráp lại, rồi nó có cái giả tướng. Cái giả tướng đó nó không thật. Cho nên Bồ Tát thấy cái tướng là không thật mà độ chúng sinh không mệt mỏi. Chớ còn nói tất cả pháp không có tướng nào thật hết thì chúng sinh cũng đâu có thật. Chúng sinh không thật thì khổ vui đâu có thật phải không. Khổ vui không thật thì khổ kệ họ, cứu họ làm chi, khổ đâu có thật. Như vậy tâm niệm đó chưa phải là tâm niệm của Bồ Tát. Tuy không có tướng thật mà luôn luôn cứu độ chúng sinh, làm lợi ích cho chúng sinh. Đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành vô tác mà hiện thọ thân. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành vô tác, (vô tác đây là vô nghiệp). Bồ Tát không còn nghiệp để sanh tử nữa nhưng luôn luôn hiện thân trong tam giới để giáo hóa chúng sinh đó là hạnh của Bồ Tát

Còn mình bây giờ làm sao? Mong tu hết nghiệp cho rồi, khỏe phải không? Mấy chú có ham điều đó không? Làm sao cho mình hết sạnh nghiệp để mình giải thoát cho rồi còn thiên hạ ở đây ai sao kệ họ, miễn mình giải thoát thì thoi. Cho nên nhiều khi toooi nói mình tàn nhẫn, ăn cơm của bá gia bá tánh, mỗi ngày nhận lãnh của người ta mà tu rút cho mình về cực lạc phứt cho rồi, để thiên hạ bà cỏn ở đây làm sao thì làm. Như vậy có tàn nhẫn không. Hay là mình nhận của thiên hạ ăn mỗi ngày, cả ăn cả mặc, mà bây giờ nói tôi tu rút để tôi nhập Niết bàn, hết sanh tử. Vậy ai trở lại đây tiếp độ họ? Có phải là mình muốn quịt nợ không? Cho nên chúng ta phải có tâm niệm cao thượng của Bồ Tát hạnh để thấy rõ cái gì nên làm. Chớ không nhiều khi cái tu của mình không khéo nó biến thành ích kỷ, của người ta thì nhận mà cứ lo phận mình thôi. Cái đó thật là tàn nhẫn đó. Hiểu cho rõ mới thấy Bồ Tát hết nghiệp nhưng vẫn hiện thọ thân. Chúng ta tu những nghiệp ác của thân, khẩu, ý. Những nghiệp sanh tử của thân, khẩu, ý chúng ta dừng nhưng vẫn nguyện cầu tiếp tục sanh trong ta bà hay trong tam giới để giáo hóa chúng sinh. Như vâỵ mới là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành vô khởi mà khởi tất cả hạnh lành. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành vô khởi mà khởi tất cả các pháp không có thật tươngs. Không có thật tướng tì cái gì sinh, cái gì diệt? Sinh tức là khởi. Tuy thấy các pháp không sanh, không diệt mà luôn luôn khởi tất cả hạnh lành để làm lợi ích chúng sinh. Đó là hạnh Bồ Tát

Tuy hành lục Ba La Mật mà khắp biết tâm vương, tâm sở. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành Lục Ba La Mật, tức là 6 pháp Ba La Mật. Sáu pháp Ba La Mậtlục độ đễ đi đến bờ kia, tức là bờ của Niết Bàn. Tới bờ giải thoát rồi nhưng luôn luôn cốt thấy được tâm niệm, tâm vương, tâm sở của chúng sinh.Tâm thiện, tâm ác, tâm thế này thế kia để dùng phương tiện giáo hóa họ. Đó là hạnh của Bồ Tát. Chớ không phải dùng lục độ đưa mình qua bên kia rồi an trúNiết Bàn. Không phải vậy. 

Tuy hành lục thông mà không có tận lậu. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Lục thông là gì? Tức là 6 thức thần thông: Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, rôì Túc mạng thông, Tha tâm thông, Thần túc thôngLậu tận thông. Tuy tu đủ lục thông mà chừa cái thông sau chót đó , là Lậu tận thông. Vì Lậu tận là chỉ cho các nghiệp đã sạch hết, không còn để rớt trong tam giới. Gọi đó là lậu tận. Bồ Tát tuy đủ lục thông nhưng về cái rớt trong tam giới thì các Ngài còn để dành lại. Để dành cái đó để đi trong tam giới để độ chúng sinh, chớ các Ngài không chịu rớt trong tam giới. Cho nên không có lậu tận

Tuy hành Tứ vô lượng tâm mà không tham trước sanh ở cõi trời Phạm Thiên. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Bởi vì trong kinh Phật thường nói người nào tu: Từ, Bi, Hỷ, Xả, bốn hạnh đó viên mãn thì được sanh về cõi trời Phạm Thiên. Bồ Tát cũng tu bốn hạnh: Từ, Bi, Hỷ, Xả nhưng không cốt để sanh về cõi Phạm Thiên. Đó là hạnh Bồ Tát

Tuy hành Thiền định, giải thoát tam muội mà không rơi trong Thiền sanh. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Nói rằng chúng ta tu như là được định Sơ thiền, được định Nhị thiền, định Tam thiền, định Tứ thiền, rồi cho tới Không vô biên xứ ... Tất cả những tam muội đó Bồ Tát cũng tu hết, nhưng các Ngài không vì sanh ở trong các chỗ đó. Thí dụ nhưng người tu đinh Sơ thiền thì chết sanh về cõi Sơ thiền thiên phải không? Người được đinh tứ Thiền, thì chết sanh về Tứ thiền thiên. Ngài tu hết những định đó mà không chịu sanh về những cõi đó mà trở lại Ta bà giáo hóa chúng sinh. Đó là hạnh Bồ tát

Tuy hành Tứ Niệm Xứ mà không có cứu cánh hằng lìa thân thọ, tâm, pháp. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Thường thường Tứ niệm xứ là quán làm sao? Quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Bốn pháp quán đó thành công rồi thì vĩnh viễn lìa thân, không còn bị sanh trở lại nữa. Nhưng các Ngài tu bốn hạnh đó là không vĩnh viễn lìa thân, cũng không vĩnh viễn lìa thọ, tâm và pháp, để còn thân, còn thọ, còn tâm, pháp mà trở lại giáo hóa chúng sanh. Đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành Tứ chánh cần mà không xả thân tâm tinh tấn. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Nói rằng Bồ Tát tu Tứ chánh cần (Tứ chánh cần thì dễ nhớ rồi). Đều ác chưa sanh thì ngăn đừng cho nó sanh. Điều ác đã sanh thì cố gắng tiêu diệt. Điều ác đã sanh thì cố gắng tiêu diệt. Điều thiện chưa sanh thì kích phát cho nó sanh. Điều thiện đã sanh thì tạo điều kiện cho nó tăng trưởng. Đó là Tứ chánh cần. Bồ Tát. Bồ Tát tu Tứ chánh cần này mà không bỏ thân tâm tinh tấn. (Tức là tu Tứ chánh cần rồi mà thân tâm mãi mãi tinh tấn không dừng). Gọi là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành Tứ như ý túc mà được tự tại thần thông. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Tứ như ý túc là bốn pháp của Đại thừa tu đó. Tứ như ý túc, mấy chú nhớ là gì không? 

!- Là Dục Như Ý Túc

2- Là Tinh Tấn Như Ý Túc

3- Là Niệm Như Ý Túc
4- Là Nhất Tâm Như Ý Túc (hay là định Như Ý Túc). 

Như vậy Bồ Tát tu 4 cái đó thì theo phàm phu hay Thanh Văn? Tu 4 cái đó thì được đầy đủ 4 Như Ý Túc thôi. Còn các Ngài Bồ Tát tu 4 cái đó là đầy đủ tất cả thần thông. Đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành ngũ cănphân biệt chúng sinh, các căn lợi độn. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Tức là Ngũ Căn đó. Khi tu Ngũ Căn cốt làm sao để biết căn của chúng sinh, người đó lanh lợi, ngu độn để tìm cách giáo hóa họ. Đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành Ngũ Lực mà ưa cầu thập lực của Phật. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Hạnh Thanh Văn thì tu Ngũ Lực, Bồ Tát cũng tu Ngũ Lực nhưng các Ngài chỉ mong làm sao được thập lực của Phật mới thội. Đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành Thất giác phầnphân biệt trí huệ Phật. Ấy là hạnh Bồ Tát

Thất Bồ Đề phần là 7 phần giác ngộ. Bảy phần giác ngộ đó là của Thanh Văn, ở đây các Ngài cũng tu 7 phần đó nhưng cốt được trí huệ Phật, chớ không cốt được trí tuệ Thanh Văn. Đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành Bát chánh đạo mà ưa hành vô lượng Phật đạo. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Thường thường chúng ta tu Bát chánh đạo là dượt trừ tâm bệnh của mình. Ở đây Bồ Tát tu Bát chánh đạo nhưng nguyện hành vô lượng Phật đạo, thì đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành chỉ quán để làm pháp trợ đạo, không cứu cánh rơi ở tịch diệt. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Thường thường chúng ta tu chỉ hay là tu quán để làm gì? Để tâm mình yên lặng, phải không? Tâm yên lặng tức là tiến tới chỗ tịch diệt. Bồ Tát cũng tu chỉ tu quán, dùng cái đó để giúp cho đạo pháp, nhưng các Ngài không an trú chỗ tịch diệt. Đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành các pháp chẳng sanh, chẳng diệt mà dùng tướng hảo trang nghiêm thân kia. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Bởi Bồ Tát luôn luôn biết các pháp thực thể không sanh không diệt. Tuy thực thể không sanh không diệt mà luôn luôn tu các hạnh tướng hảo, trang nghiêm thân. Tại sao vậy? Lẽ ra thì các pháp không sanh không diệt
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19688)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23950)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41208)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19686)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23973)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23291)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27492)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26546)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29304)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33174)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20179)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25759)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20902)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31298)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38548)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21419)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44237)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29809)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42184)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22128)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45733)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32102)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23946)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24377)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29240)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33904)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27674)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32118)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21057)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28840)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21560)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28054)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22057)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21420)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19486)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19457)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19822)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19232)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29166)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20607)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28272)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23644)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33162)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31830)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21363)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39607)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21542)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19363)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24809)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21746)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22368)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29123)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22550)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20464)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23506)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21229)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35302)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24538)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant