Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 15

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8540)
Phần 15


KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Phần 15

Sao gọi là không có huệ phương tiện bị trói? Nghĩa là Bồ Tát trụ nơi tham dục, sân nhuế, tà kiến... Các thứ phiền não mà gieo trồng các gốc công đức. Ấy gọi là không có huệ phương tiện bị trói. 

Quí vị thấy nghĩa là Bồ Tát cũng làm lợi ích cho chúng sinh mà còn tham dục, con sân nhuế, còn tà kiến... làm mọi việc phước đức, phước đức này, phước đức nọ. Thấy ai khổ mình giúp. Thấy ai bệnh mình giúp. Làm đủ thứ hết nhưng giúp thì gíup mà động tới nổi sân đùng đùng thì đó gọi là gì? Động tới thì cũng là tham. Thành ra làm việc công đức mà còn tham dục, còn sân nhuế, còn tà kiến thì làm việc công đức đó là không có trí tuệ phương tiện là bị trói buộc. Nhớ cho thật rõ mấy điều đó. 

Sao gọi là có trí huệ phương tiện được cởi mở? Nghĩa là lìa các tham dục, sân nhuế, tà kiến... các thứ phiền não mà gieo trồng các gốc công đức rồi hồi hướng về vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ấy gọi là huệ phương tiện giải thoát hay được cởi mở. 

Như vậy cũng làm việc công đức, hai bên đều làm công đức, mà một bên làm việc công đức còn mang trong lòng mình tham dục, sân nhuế, tà kiến. Còn một bên làm việc công đức mà dứt lìa những cái đó, rồi lại hướng về Phật đạo thì gọi là có trí tuệ phương tiện. Đó là được giải thoát

Văn Thù Sư Lợi, những vị Bồ Tát có bệnh kia nên như thế mà quán các pháp (phải quán các pháp như vậy đó). Lại nữa quán thân vô thường, khổ, không, phi ngã, ấy gọi là huệ. Tuy thân có bệnh mà thường ở trong sanh tử làm lợi ích cho tất cả chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết chán mỏi. Ấy gọi là phương tiện lại nữa quán thân, thân chẳng lìa bệnh, bệnh chẳng lìa thân. Bệnh ấy, thân ấy phải mới, không phải củ. Ấy gọi huệ. Dù thân có bệnh mà không hằng diệt. Ấy gọi là phương tiện

Đoạn này lại chỉ thêm cho chúng ta thấy là Bồ Tát cũng dùng những pháp vô thường, khổ, không, vô ngã của Phật dạy. Mình thấy rõ được lý vô thường, khổ, không, vô ngã, gọi đó là trí huệ. Tuy thấy như vậy mà thường Thanh Văn thấy vô thường, khổ, không, vô ngã thì liền thấy Niết Bàntịch tịnh, phải không? Rồi thích an trú nơi Niết Bàn. Còn Bồ Tát thấy vô thường, khổ, không, vô ngã mà thân này biết là thân có bệnh mà ở trong sanh tử để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, không biết mệt mỏi. Đó gọi là Bồ Tátphương tiện. Chớ không phải các Ngài thấy thân này là thật, là quí. Cho nên sanh ra rồi chết đi, họ muốn sanh lại vì họ quí thân. 

Còn một hạng người nữa là thấy thân này vô thường, khổ, không, vô ngã. Rồi biết nó quá tạm bợ, nó không có giá trị gì, rồi muốn bỏ luôn để nhập Niết Bàn. Đó là hai quan niệm của phàm phu và của Nhị thừa. Bồ Tát ngược lại biết rõ thân vô thường, khổ, không, vô ngã mà vẫn mang thân làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, không biết chán mỏi. Đó là tâm niệm của Bồ Tát. Hai cái khác nhau chỗ đó đó. 

Rồi lại nữa ở đây mới nói Bồ Tát phải quán thân. Thân không lìa bệnh. Quán thân, chữ thân trước là bảo mình quán thân. Cái thân này không lìa bệnh, rồi bệnh không lìa thân. Bệnh ấy, thân ấy không phải mới, không phải củ. Ấy gọi là huệ. Tại sao vậy? Bây giờ chúng ta xét thân này và cái bệnh, hai cái đó rời nhau không? Bệnh ở ngoài thân có hay là từ trong thân ra? Như vậy nếu bệnh không ngoài thân thì tức nhiên thân không lìa bệnh mà bệnh cũng không lìa thân. Như vậy bệnh và thân cũng không phải mới cũng không phải cũ. Sao vậy? Mới phát bệnh hồi nãy thì nói mới, phải không? Còn bệnh năm xưa gọi là cũ. Tại sao đây nói không phải mới, không phải cũ? 

Bởi nếu có thân là có bệnh. Tại sao vậy? Vì Phật đã dạy thân này là tứ đại hợp. Tứ đại hợp thì tứ đại có hợp nhau hay không? Tứ đại là chống nghịch. Mà chống nghịch là gốc bệnh. Cho nên có thân là có bệnh. Cái bệnh đó có sẵn hay là mới có? Có tứ đại hợp là có bệnh liền. Như vậy nó không phải mới rồi phải không? Nhưng tại sao không phải cũ? Nó không phải mới vì có htân là gốc bệnh, cho nên bệnh không phải là mới. Nhưng khi chưa đủ duyên thì nó không phát. Khi gặp duyên nó mới phát, cho nên không phải là cũ. Như vậy để thấy rõ rằng cái thân và bệnh cũng không phải mới, không phải cũ, không phải lìa nhau. Thấy được như vậy đó gọi là có trí tuệ

Dù thân có bệnh mà chẳng hằng diệt. Dù Bồ Tát biết rằng cái thân này là gốc của bệnh. Nhưng không muốn nhập Niết Bàn. Vì sao? Vì muốn còn thân mà giáo hóa chúng sinh. Vì chúng sinh mê muội. Thân giả tưởng là thật, khổ tưởng là vui... Mê muội như vậy. mình bây giờ được biết, mình biết rồi mà mình lại muốn tịch diệt thì ai dạy giùm họ, ai giáo hóa cho họ. Cho nên biết được như vậy rồi lý đáng các Ngài đủ điều kiện nhập Niết Bàn mà không nhập Niết Bàn. Ấy gọi là phương tiện. Phương tiện của Bồ Tát là như vậy. 

Văn Thù Sư Lợi, Bồ Tát có bệnh nên như thế mà điều phục tâm kia. Chẳng trụ ở trong ấy cũng lại chẳng trụ, chẳng điều phục tâm. 

Như vậy câu này nghe dễ hiểu không? Nói rằng nếu Bồ Tát có bệnh thì nên như thế mà điều phục tâm đó, nhưng mà chẳng trụ trong chỗ điều phục đó. Tại sao vậy? 

Vì sao? Nếu trụ chẳng điều phục tâm, ấy là pháp của người ngu. Còn nếu trụ ở điều phục tâm, ấy là pháp của Thanh Văn. Thế nên Bồ Tát không phải trụ ở nơi điều phục mà chẳng điều phục tâm. Lìa hai pháp này, ấy gọi là hạnh Bồ Tát

Chỗ này quí vị nghe cho kỹ để thấy cái cao thượng của Bồ Tát. Vì nếu Bồ Tát lo điều phục tâm của mình thì điều đó rất tốt, rất phải rồi. Nhưng mà cố chấp cái điều phục đó là cứu cánh, rồi cứ lo điều phục mãi, như vậy đó trở thành Thanh Văn, quên làm lợi ích cho chúng sinh. Còn nếu kẻ chưa bao giờ biết điều phục tâm thì kẻ đó là kẻ nào? Kẻ mà chưa bao giờ biết điều phục tâm thì gọi kẻ đó là kẻ gì? Kẻ ngu. Cái pháp của người ngu. Bởi vì tâm muốn gì thì họ chạy theo cái nấy. Điên đảo đủ thứ thì đó là cái pháp của người ngu. Thành ra Bồ Tát không kẻ ở hai bên đó. Không kẹt ở bên người ngu mà cũng không kẹt ở cố chấp điều phục mà quên làm lợi ích cho chúng sinh

Ở trong sanh tử không làm những hạnh ô uế. Trụ nơi Niết Bàn mà không hằng diệt độ. ấy là hạnh của Bồ Tát

Cái này thật là khó. Ở trong sanh tử, tức là sống trong sanh tử như mọi người. Cũng như chúng sinh mà không bao giờ làm hạnh ô uế. Hạnh ô uế như là tham, sân, si. Hay là phá trai, phạm giới. Gọi đó là hạnh ô uế. Trụ Niết Bàn mà không hằng diệt độ. Trụ Niết Bàn đây không phải là chấp. Trụ ở tâm thanh tịnh không có dấy động. Cái tâm hằng như như. Đó gọi là trụ Niết Bàn mà không hằng diệt độ. Tức là không phải nhập Niết Bàn bằng một cách mãi mãi không sanh trở lại. Đó là hạnh của Bồ Tát. Như vậy Bồ Tát tuy ở trong sinh tử mà tâm hằng được thanh tịnh như như. Tuy tâm hằng thanh tịnh như như mà không có ưng nhập Niết Bàn. Tức là không có đến chỗ vô sanh. Đó là hạnh của Bồ Tát

Không phải là hạnh phàm phu. Không phải là hạnh hiền thánh. Ấy là hạnh Bồ Tát

Câu này quí vị thấy dễ hiểu không? Không phải hạnh phàm phu thì mình hiểu rồi, mà không phải hạnh hiền thánh. Như vậy là sao? Bồ Tát có phải là hiền thánh không? Đây tôi thí dụ

Thí dụ như có kẻ phàm phu họ mê say rượu chè. Rồi có người tu giữ giới thanh tịnh, biết rượu chè là tội lỗi, tránh xa không bao giờ bén mảng đến. Người mê say rượu chè đó là kẻ xấu phải không? Còn người tránh xa rượu chè đó là người tốt. Người tốt tức là người hiền phải không? Như vậy một bên mê say, một bên xa lánh. Còn Bồ Tát không phải vậy. không mê say rượu chè nhưng có khi ngồi quán rượu để dạy cho người ta bỏ rượu. Như vậy đó là hạnh của Bồ Tát. Quí vị thấy nó khác hơn phàm phu ngồi quán rượu vì say rượi, vì mê rượu. Còn hiền thánh vì tránh, biết chỗ đó xấu, không bén mảng tới, thì đó là hạnh người tốt. Nhưng đây vẫn tới chỗ đó, không vì mê say mà vì giáo hóa họ. Cho nên nói hanh đó là hạnh Bồ Tát. Cái này thật là, đến đó mới dám làm nghe. Chứ đừng tưởng lấy cớ rằng tôi tu hạnh Bồ Tát, rồi sớm la cà quán rượu, chiều la cà thanh lâu. Nói tôi tới đây để giáo hóa họ. Nhưng giáo hóa ai chưa biết mà mình nghiền trước rồi. Cái đó là đại tội đó. Nên Bồ Tát tới đó mà không phải như tâm phàm phu. Như vây mới đúng là hạnh Bồ Tát

Không phải cái hạnh cấu. Không phải cái hạnh tịnh. Ấy là cái hạnh Bồ Tát

Không phải hạnh cấu (tức là hạnh nhơ nhớp). Cũng không phải hạnh tịnh. Ấy là hạnh Bồ Tát. Hạnh cấu là gì? Hạnh tịnh là gì? Hạnh cấu, thí dụ như những kẻ tham lam, nóng giận v.v... Hạnh đó là cấu hay tịnh? Đó là hạnh cấu, hạnh nhơ nhớp. Hạnh tịnh là những người không tham lam, không nóng giận, đó là hạnh tịnh. Nhưng Bồ Tát thì không phải cả hai cái đó. Bồ Tát có khi các Ngài la rầy, đánh đập. La rầy, đánh đập là vì cái gì? Vì để răn, để sửa những chúng sanh ngoan cố. Nhưng vì thương họ, la rầy, đánh đập. Cái hạnh la rầy, đánh đập đó cấu hay tịnh? Là cấu rồi phải không? Nhưng mà không ở trong lòng xấu, không phải vì tham vì sân. Vì vậy mà không phải cấu. Mà đã la rầy đánh đập rồi làm sao gọi là tịnh được phải không? Cho nên không phải là tịnh. Đó là hạnh của Bồ Tát. Thực ra hạnh của Bồ Tát là hạnh không thể lường được. Người phàm khó thấy, khó biết. Chúng ta luôn luôn thâý có hai bên. Ai xấu thì chúng ta thấy xấu. Ai tốt thì chúng ta thấy tốt. Thấy người xấu mình chê. Thấy người tốt mình khen. Hai cái đó hết sức rõ và cũng hết sức dễ. Còn hàng Bồ Tát này có khi thấy họ như xấu mà tâm họ không phải xấu. Rồi mình làm sao, mình khen hay mình chê? Đó là những điều mà gọi là hạnh Bồ Tát, là cái hạnh khó, hạnh nghĩ bàn, khó mà thấy tới được. 

Tuy qua khỏi hạnh của ma mà hiện hàng phục chúng ma. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Bồ Tát thì đâu còn bị nghiệp chướng sanh trong các loài ma vương hay quỷ thần. Nhưng các Ngài có khi cũng thị hiện làm những việc của quỷ thần, của ma vương để hàng phục chúng nó, chớ không phải tránh nó mãi mãi

Cầu nhất thế trí, không cầu phi thời. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Quí vị thây câu này dễ hiểu hay khó? Cầu nhất thế trí không cầu phi thời. Ấy là hạnh của Bồ Tát. Bởi vì nhất thế trí là trí biết tất cả. Hàng Thanh văn thì được nhất thế trí còn Phật thì gọi là gì? Là đạo chủng trí. Bồ Tát, các Ngài cũng cầu nhất thế trí nhưng mà không phải cầu phi thời. Nghĩa là cầu nhất thế trí để biết tất cả tâm địa và các pháp để giáo hóa chúng sinh. Chớ không phải cầu nhất thế trí để an trụ Niết Bàn, để thoát ly sinh tử cho bản thân mình. vì vậy mà nói không cầu phi thời. Đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy quán các pháp chẳng sanh mà chẳng nhập chánh vị. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Nghĩa là quán thấy các pháp khôngthực tính, do duyên hợp tự tánh là không. Mà tự tánh là không thì duyên hợp gọi là sanh. Duyên ly tán gọi là diệt. Cái sanh cái diệt đó không thực cho nên nói rằng thấy nó không sanh. Thấy không sanh mà không nhập chánh vị. Chánh vị đây là chỉ cho Niết Bàn. Niết Bànvô sanh. Tuy thấy các pháp không sanh mà mình không. Nhập chỗ không sanh. Đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy quán 12 nhân duyên, 12 duyên khởi mà nhập vào các tà kiến. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Nói rằng Bồ Tát quán 12 duyên khởi mà vào tà kiến. Bởi vì thường chúng ta học đạo thì pháp duyên khởipháp chính của người tu, của Thanh Văn, của Bồ Tát, do Phật dạy. Thấy các pháp do duyên sinh là thấy đúng chân lý. Thấy đúng lẽ thật. Còn nếu thấy có, thấy không, thấy phải, thấy quấy là thật thì đó là thấy tà kiến, phải vậy không? Vậy thì Bồ Tát lúc nào cũng thấy rõ các pháp là duyên khởi. Nhưng đối với chúng sinh phải dạy họ bỏ điều ác. Nói đây là điều ác thật phải bỏ đi. Đây là điều thiện thật phải ráng làm. Như vậy có tà kiến không? Điều ác, điều thiện là duyên hợp không thật, phải không? Nhưng mình vẫn nó nó thật, để bảo người ta tránh. Mình nói nó thật để bảo người ta làm. Như vậy có vào tà kiến không? Như vậy để hiểu cho thật rõ, chớ nhiều khi chúng ta chỉ nhìn có một chiều, mình thấy cái gì cũng duyên khởi tánh không, rồi nói cái gì cũng không không hết trơn. Rồi mấy người mới vào đạo, nói các pháp không thật, họ biết làm sao mà tu đây, phải không? Cho nên mình biết rõ các pháp duyên khởi tánh không, nhưng kẻ mới học đạo, thì phải chỉ thẳng rằng, đây là cái tội. Tội này là thật đó, chớ tạo sẽ bị đọa vào địa ngục. Đây là cái phước thật đó, nếu tu thì sanh thiên đường. Mình nói như khẳng đình thì có giống tà kiến không? Giống tà kiến. Mà chính đó là hạnh Bồ Tát vì làm lợi ích cho chúng sinh, chớ không nói theo cái thấy riêng của mình. 

Tuy nhiếp phục tất cả chúng sinh mà không có ái trước. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Tuy là mình nhiếp phục mình giáo hóa được tất cả chúng sinh mà mình không có mê chấp ở đó thì đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy ưa xa lìa mà chẳng y nơi thân tâm hết. Âúy là hạnh của Bồ Tát

Mấy câu này nghe lạ. Tuy là ưa xa lìa mà chẳng y nơi thân tâm hết. Ưa xa lìa tức là vì Bồ Tát thấy thân là không thật. Thấy thân là nhớp nhúa, là tạm bợ. Cho nên Ngài cũng thích xa lìa nó. Nhưng vì lòng đại bi muốn giáo hóa cho mọi người cùng thấy như mình, cùng được như minh, nên không để thân tâm này nó hết, vẫn để cho nó còn tiếp tục tái sanh để giáo hóa họ. Chó không phải vì thấy thân này vô thường không rồi, muốn xa lìa mãi mãi, nhập Niết bàn không còn tái sanh nữa. Bồ Tát biết điều đó, ưa điều đó, mà vì thương chúng sinh nên vẫn giữ thân tâm còn lại để giáo hóa họ. Đó là hạnh Bồ Tát

Tuy là đi trong tam giới mà không phá hoại pháp tánh. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Pháp tánh là gì? Tức là tánh thể của các pháp. Tánh thể của các pháp thật có không? Cái nhà có nó có thực tủa cái nhà không? Như vậy cái nhà không có thực thể cái nhà. Cái chuông không có thực thể cái chuông. Cái mõ không có thực thể cái mõ. Cho tới mọi người, mọi cảnh, đều là tướng lừa dối không có thực thể. Tất cả cảnh trong dục giới, không có thực thể, thì sắc giới, vô sắc giới cũng không có thực thể. Như vậy các Ngài làm hạnh Bồ Tát, tuy là qua lại trong tâm giớikhông pháp hoại pháp tánh. Tức là đi qua lại trong tam giới mà vẫn thấy rõ tam giới là không thực. Tam giớihư dối, thấy rõ như vậy. Đó là hạnh Bồ Tát. Chớ không phải như minh đi trong tam giới rồi mê, tới đâu tưởng thiệt tới đó. 

Như bây giờ mình ở trong dục giới này, mình thấy thiệt không? Như vậy mình có pháp hoại pháp tánh không? Chúng ta vào trong cõi nào thì chúng ta liền tháy cõi đó là thật. Đó là phá hoại pháp tánh. Còn Bồ Tát vào trong tam giới mà vẫn thấy tam giới không thật, không có tự thể, cho nên không phá hoại pháp tánh

Tuy hành nơi không mà gieo trồng các gốc công đức. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Học những cái này chúng ta phải nghiềm ngẫm cho thật kỹ. Nhiều khi mấy chú mới học đạo, nghe nói các pháp do duyên hợp, tánh nó là không, tội cũng không thật, phước cũng không thật v.v... Mà tội không thật, phước không thật thì làm phước làm gì. Rồi thôi nghêu ngao mà chơi. Như vậy đó là cái bệnh. Cho nên đây biết rõ các pháp tự tánh là không, nhưng mọi công đức vẫn không bỏ sót, vẫn không quên làm thì đó là hạnh của Bồ Tát. Nhớ như vậy. chớ để nhiều khi chúng ta học rồi cái học đó nó làm chướng ngại việc lành. Nên tôi thấm thiết nhất là câu mà đức Phật nói rằng, đức Phật còn mót từ cái phước xỏ kim. Còn chúng ta công đức cỡ nào mà nhiều khi thấy việc lành không muốn làm. Huynh đệ có việc gì nặng nhọc, họ làm không muốn nổi, kêu giúp một tay thì ngó lơ đi. Như vậy đó mấy chú nghĩ sao? Mình có phước hơn Phật không? Nghĩa là Phật còn xỏ kim gìum cho Ngài A Na Luật, khi Ngài không thấy đường xỏ kim để vá áo. Ngài than rằng: 

( Ai làm phước lại xỏ giùm cây kim cho tôi. 

Phật liền đi tới nói: 

( A Na Luật, đưa đây ta xỏ kim cho để bòn 1 chút phước. 

Mấy chú thấy Phật còn tiếc từng cái phước xỏ kim. Còn mình bây giờ tu hành chưa ra trò ra trống gì, mà những điều phước thiện để cho vui với nhau đó, mình còn không muốn làm thì thiệt là quá dở phải không? Đó là những điều Bồ Tát làm. 

Tuy hành vô tướng mà độ chúng sinh. Âúy là hạnh của Bồ Tát

Hành vô tướng tức là thấy tất cả pháp không có tướng thật. Thí dụ như chúng ta nhìn cái đồng hồ. Phàm phu cho đó là đồng hồ thật, có tướng tròn, tướng vuông, tướng đẹp, tướng xấu. Nhưng với con mắt trí tuệ của hành duyên giác thì thấy đồng hồ chỉ là một mới bộ phận rạp lại. Mếu mở tháo tung ra thì có còn gì là đồng hồ đâu. Từng bộ phận ráp lại đủ thì tạm gọi là đồng hồ. Mở tung ra thì không có đồng hồ thật. Như vậy các pháp có tướng gì thật đâu. 

Như cái nhà này, mình nói nó là cái nhà, hình chữ nhật hay là hình gì đó. Như sự thật là hình chữ nhật, hay là nó có thướng thật là hình thế này thế kia không? Chẳng qua là một mớ duyên ráp lại, rồi nó có cái giả tướng. Cái giả tướng đó nó không thật. Cho nên Bồ Tát thấy cái tướng là không thật mà độ chúng sinh không mệt mỏi. Chớ còn nói tất cả pháp không có tướng nào thật hết thì chúng sinh cũng đâu có thật. Chúng sinh không thật thì khổ vui đâu có thật phải không. Khổ vui không thật thì khổ kệ họ, cứu họ làm chi, khổ đâu có thật. Như vậy tâm niệm đó chưa phải là tâm niệm của Bồ Tát. Tuy không có tướng thật mà luôn luôn cứu độ chúng sinh, làm lợi ích cho chúng sinh. Đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành vô tác mà hiện thọ thân. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành vô tác, (vô tác đây là vô nghiệp). Bồ Tát không còn nghiệp để sanh tử nữa nhưng luôn luôn hiện thân trong tam giới để giáo hóa chúng sinh đó là hạnh của Bồ Tát

Còn mình bây giờ làm sao? Mong tu hết nghiệp cho rồi, khỏe phải không? Mấy chú có ham điều đó không? Làm sao cho mình hết sạnh nghiệp để mình giải thoát cho rồi còn thiên hạ ở đây ai sao kệ họ, miễn mình giải thoát thì thoi. Cho nên nhiều khi toooi nói mình tàn nhẫn, ăn cơm của bá gia bá tánh, mỗi ngày nhận lãnh của người ta mà tu rút cho mình về cực lạc phứt cho rồi, để thiên hạ bà cỏn ở đây làm sao thì làm. Như vậy có tàn nhẫn không. Hay là mình nhận của thiên hạ ăn mỗi ngày, cả ăn cả mặc, mà bây giờ nói tôi tu rút để tôi nhập Niết bàn, hết sanh tử. Vậy ai trở lại đây tiếp độ họ? Có phải là mình muốn quịt nợ không? Cho nên chúng ta phải có tâm niệm cao thượng của Bồ Tát hạnh để thấy rõ cái gì nên làm. Chớ không nhiều khi cái tu của mình không khéo nó biến thành ích kỷ, của người ta thì nhận mà cứ lo phận mình thôi. Cái đó thật là tàn nhẫn đó. Hiểu cho rõ mới thấy Bồ Tát hết nghiệp nhưng vẫn hiện thọ thân. Chúng ta tu những nghiệp ác của thân, khẩu, ý. Những nghiệp sanh tử của thân, khẩu, ý chúng ta dừng nhưng vẫn nguyện cầu tiếp tục sanh trong ta bà hay trong tam giới để giáo hóa chúng sinh. Như vâỵ mới là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành vô khởi mà khởi tất cả hạnh lành. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành vô khởi mà khởi tất cả các pháp không có thật tươngs. Không có thật tướng tì cái gì sinh, cái gì diệt? Sinh tức là khởi. Tuy thấy các pháp không sanh, không diệt mà luôn luôn khởi tất cả hạnh lành để làm lợi ích chúng sinh. Đó là hạnh Bồ Tát

Tuy hành lục Ba La Mật mà khắp biết tâm vương, tâm sở. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành Lục Ba La Mật, tức là 6 pháp Ba La Mật. Sáu pháp Ba La Mậtlục độ đễ đi đến bờ kia, tức là bờ của Niết Bàn. Tới bờ giải thoát rồi nhưng luôn luôn cốt thấy được tâm niệm, tâm vương, tâm sở của chúng sinh.Tâm thiện, tâm ác, tâm thế này thế kia để dùng phương tiện giáo hóa họ. Đó là hạnh của Bồ Tát. Chớ không phải dùng lục độ đưa mình qua bên kia rồi an trúNiết Bàn. Không phải vậy. 

Tuy hành lục thông mà không có tận lậu. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Lục thông là gì? Tức là 6 thức thần thông: Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, rôì Túc mạng thông, Tha tâm thông, Thần túc thôngLậu tận thông. Tuy tu đủ lục thông mà chừa cái thông sau chót đó , là Lậu tận thông. Vì Lậu tận là chỉ cho các nghiệp đã sạch hết, không còn để rớt trong tam giới. Gọi đó là lậu tận. Bồ Tát tuy đủ lục thông nhưng về cái rớt trong tam giới thì các Ngài còn để dành lại. Để dành cái đó để đi trong tam giới để độ chúng sinh, chớ các Ngài không chịu rớt trong tam giới. Cho nên không có lậu tận

Tuy hành Tứ vô lượng tâm mà không tham trước sanh ở cõi trời Phạm Thiên. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Bởi vì trong kinh Phật thường nói người nào tu: Từ, Bi, Hỷ, Xả, bốn hạnh đó viên mãn thì được sanh về cõi trời Phạm Thiên. Bồ Tát cũng tu bốn hạnh: Từ, Bi, Hỷ, Xả nhưng không cốt để sanh về cõi Phạm Thiên. Đó là hạnh Bồ Tát

Tuy hành Thiền định, giải thoát tam muội mà không rơi trong Thiền sanh. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Nói rằng chúng ta tu như là được định Sơ thiền, được định Nhị thiền, định Tam thiền, định Tứ thiền, rồi cho tới Không vô biên xứ ... Tất cả những tam muội đó Bồ Tát cũng tu hết, nhưng các Ngài không vì sanh ở trong các chỗ đó. Thí dụ nhưng người tu đinh Sơ thiền thì chết sanh về cõi Sơ thiền thiên phải không? Người được đinh tứ Thiền, thì chết sanh về Tứ thiền thiên. Ngài tu hết những định đó mà không chịu sanh về những cõi đó mà trở lại Ta bà giáo hóa chúng sinh. Đó là hạnh Bồ tát

Tuy hành Tứ Niệm Xứ mà không có cứu cánh hằng lìa thân thọ, tâm, pháp. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Thường thường Tứ niệm xứ là quán làm sao? Quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Bốn pháp quán đó thành công rồi thì vĩnh viễn lìa thân, không còn bị sanh trở lại nữa. Nhưng các Ngài tu bốn hạnh đó là không vĩnh viễn lìa thân, cũng không vĩnh viễn lìa thọ, tâm và pháp, để còn thân, còn thọ, còn tâm, pháp mà trở lại giáo hóa chúng sanh. Đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành Tứ chánh cần mà không xả thân tâm tinh tấn. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Nói rằng Bồ Tát tu Tứ chánh cần (Tứ chánh cần thì dễ nhớ rồi). Đều ác chưa sanh thì ngăn đừng cho nó sanh. Điều ác đã sanh thì cố gắng tiêu diệt. Điều ác đã sanh thì cố gắng tiêu diệt. Điều thiện chưa sanh thì kích phát cho nó sanh. Điều thiện đã sanh thì tạo điều kiện cho nó tăng trưởng. Đó là Tứ chánh cần. Bồ Tát. Bồ Tát tu Tứ chánh cần này mà không bỏ thân tâm tinh tấn. (Tức là tu Tứ chánh cần rồi mà thân tâm mãi mãi tinh tấn không dừng). Gọi là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành Tứ như ý túc mà được tự tại thần thông. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Tứ như ý túc là bốn pháp của Đại thừa tu đó. Tứ như ý túc, mấy chú nhớ là gì không? 

!- Là Dục Như Ý Túc

2- Là Tinh Tấn Như Ý Túc

3- Là Niệm Như Ý Túc
4- Là Nhất Tâm Như Ý Túc (hay là định Như Ý Túc). 

Như vậy Bồ Tát tu 4 cái đó thì theo phàm phu hay Thanh Văn? Tu 4 cái đó thì được đầy đủ 4 Như Ý Túc thôi. Còn các Ngài Bồ Tát tu 4 cái đó là đầy đủ tất cả thần thông. Đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành ngũ cănphân biệt chúng sinh, các căn lợi độn. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Tức là Ngũ Căn đó. Khi tu Ngũ Căn cốt làm sao để biết căn của chúng sinh, người đó lanh lợi, ngu độn để tìm cách giáo hóa họ. Đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành Ngũ Lực mà ưa cầu thập lực của Phật. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Hạnh Thanh Văn thì tu Ngũ Lực, Bồ Tát cũng tu Ngũ Lực nhưng các Ngài chỉ mong làm sao được thập lực của Phật mới thội. Đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành Thất giác phầnphân biệt trí huệ Phật. Ấy là hạnh Bồ Tát

Thất Bồ Đề phần là 7 phần giác ngộ. Bảy phần giác ngộ đó là của Thanh Văn, ở đây các Ngài cũng tu 7 phần đó nhưng cốt được trí huệ Phật, chớ không cốt được trí tuệ Thanh Văn. Đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành Bát chánh đạo mà ưa hành vô lượng Phật đạo. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Thường thường chúng ta tu Bát chánh đạo là dượt trừ tâm bệnh của mình. Ở đây Bồ Tát tu Bát chánh đạo nhưng nguyện hành vô lượng Phật đạo, thì đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành chỉ quán để làm pháp trợ đạo, không cứu cánh rơi ở tịch diệt. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Thường thường chúng ta tu chỉ hay là tu quán để làm gì? Để tâm mình yên lặng, phải không? Tâm yên lặng tức là tiến tới chỗ tịch diệt. Bồ Tát cũng tu chỉ tu quán, dùng cái đó để giúp cho đạo pháp, nhưng các Ngài không an trú chỗ tịch diệt. Đó là hạnh của Bồ Tát

Tuy hành các pháp chẳng sanh, chẳng diệt mà dùng tướng hảo trang nghiêm thân kia. Ấy là hạnh của Bồ Tát

Bởi Bồ Tát luôn luôn biết các pháp thực thể không sanh không diệt. Tuy thực thể không sanh không diệt mà luôn luôn tu các hạnh tướng hảo, trang nghiêm thân. Tại sao vậy? Lẽ ra thì các pháp không sanh không diệt
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29882)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27168)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21763)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20421)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24737)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24734)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30969)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23977)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27758)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26505)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21297)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23210)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38117)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19949)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19035)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23141)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23867)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22784)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22904)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29560)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20633)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15844)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18845)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19645)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20147)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19948)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18111)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34160)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16409)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39228)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26052)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20094)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18843)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24049)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29108)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30940)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20998)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26849)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20667)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26247)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23318)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19815)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30022)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20214)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15138)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15824)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23866)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant