Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 11

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8461)
Phần 11


KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Phần 11

Chỗ này làm cho chúng ta sáng thêm về ý nghĩa đạo tràng. Thường thường nói đạo tràng là cái gì? Chữ tràng là trường, là chỗ, là nơi mà mình tụ hội lại để nghe kinh, để học đạo, để tụng, để ngồi thiền... chỗ đó thường gọi là đạo tràng phải không? đạo tràng là nơi tụ hội để học đạo, để tu thì gọi đó là đạo tràng. Thường nếu mình nghe nói người đó từ đạo tràng ra, thí dụ có người ở trong thành phố ra, họ tới trước cửa Thường Chiếu. Ra tới đó thấy có người ở trong cổng Thường Chiếu đi ra. Hỏi huynh ở đâu lại. Nói làm sao? Nói tôi ở trong đạo tràng Thường Chiếu mới ra, phải không? Nói đạo tràng tức là chỗ tu. Từ chỗ tu mà ra. Còn cái này một ông từ trong thành đi ra, ông nọ ngoài thành đi vào, không có chùa chiền, không có tịnh xã, không có gì hết, mà đi vào chợ. Hỏi ông từ đâu vào, nói từ đạo tràng vào. Như vậy cái đạo tràng của ông Duy Ma Cật khác với cái đạo tràngquan niệm các người tu bây giờ hay người tu thuở đó. Như vậy cái đạo tràng của chúng ta thấy là đạo tràng hình tướng. Chỗ hội hợp tu hành thì gọi đó là đạo tràng. Còn đạo tràng của ông Duy Ma Cật thấy là đạo tràng gì? Đạo tràng ở ngay trong tâm hạnh của mình, phải không? Trong tâm mình mà làm những điều tốt, làm những điều hay, ứng dụng những pháp để được tỉnh giác thì đó là đạo tràng. Dù đi đâu, dù ở chỗ nào mà mình đều sống được với những cái đó thì chỗ nào cũng là đạo tràng hết. Còn nếu mình ngồi thiền ở trên chùa, đó là đạo tràng không? Là đạo tràng rồi. Nhưng lúc đó tâm mình nghĩ xấu, nghĩ bậy thì lúc đó phải đạo tràng không? Vậy thì đạo tràng của chúng ta chỉ là đạo tràng hình thức. Chớ còn chưa đi sâu trong vào tâm tánh

Còn ông Duy Ma Cật nói đạo tràngđi thẳng vào tâm tánh. Cho nên ông mới dẫn những điều ông nói trực tâmđạo tràng, rồi phát hạnh là đạo tràng. Hai câu đó quí vị thấy, trực tâmđi thẳng vào tâm ngay thẳng, đó là đạo tràng. Phát hạnh đó là việc làm. Khởi làm những điều thiện, đó là đạo tràng. Rồi thâm tâmđạo tràng. Bồ Đề tâmđạo tràng. Rồi Bố Thíđạo tràng. Trì giớiđạo tràng. Chó tới lục độ đều là đạo tràng hết. Như vậy cho tới hàng ma nè, cho tới giảng pháp, giảng kinh... lúc nào cũng là đạo tràng

Nói tóm lại cho dễ hiểu, đạo tràng của ông Duy Ma Cậtđạo tràng của tự tâm, đạo tràng của hành động chân thật, từ tâm chân thật phát hiện. Như vậy những cái đó điều là đạo tràng. Đạo tràng đó rất là bao la, rất là rộng rãi, phải không? Bởi vì ở đâu mà chúng ta tâm được thanh tịnh, tâm hợp với đạo lý, ở đó có đạo tràng. Ở đây mà chúng làm lợi ích cho chúng sanh, làm lợi ích cho mọi người mà không có ngã, không có người thì chỗ đó cũng là đạo tràng

Như vậy hiểu được nghĩa đạo tràng này chúng ta mới thấy, người tu có khỉ ở chỗ vắng vẻ, ở trong chùa, ở những ngôi tịnh xá để tâm an lành tu. Nhưng cũng có khi mình phải đi giáo hóa nơi này nơi nọ, ở chỗ chợ búa, xóm làng. Nhưng nếu ở trong chùa, ở tại tịnh xá mà mình được thanh tịnh, tâm ý trong sạch, việc làm trong sạch thì đó là đạo tràng. Đi ra chợ búa, vào xóm làng mà tâm thanh tịnh, việc làm thanh tịnh thì ở đó cũng đạo tràng. Đừng vì chấp phải ở chùa, phải ở tịnh xá mới đạo tràng. Ra chợ búa, vào làng xóm không phải đạo trang. Nếu mình chấp như vậy đó là bệnh, phải không? Cho nên hành động của Bồ Tát là luôn luôn mỡ rộng. Chỉ nhắm vào tâm. Bởi nhắm vào tâm cho nên có khi hành động ở chỗ không hợp đạo lý mà vẫn thấy đạo lý. vì các Ngài không kẹt, không mắc. Hiểu vậy mới thấy ý nghĩa của đoạn này. 

Phật bảo Bồ Tát Kỳ Thế: 

( Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật

Bồ Tát Kỳ Thế bạch Phật rằng: 

( Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ lại thuở xưa con ở trong tịnh thất. Khi đó Ma Ba Tuần đem 1 muôn 2000 Thiên nữ, dáng giống như là Đế Thích, đánh nhạc, ca hát, đi đến chỗ của còn cùng những quyến thuộc của nó, đầu lễ dưới chân con, chấp tay cung kính đứng qua một bên. Con nghĩ nó là Đế Thích nên nói rằng: Lành thay! Kiều Thi Ca. Tuy có cái phước được như vậy. không có nên tự buông lung. Phải quán ngũ dụcvô thường đề gốc lành nơi thân, mạng, tài mà tu pháp kiên cố

Liền khi ấy chúng nói với con rằng: 

( Này Chánh Sĩ! nên nhận 1 muôn 2000 Thiên nữ này có thể đủ để quét dọn cái thất của Ngài. 

Còn nói rằng: 

( Kiều Thi Ca! Không nên đem vật phi phápcúng dường cho Sa môn Thích Tử. Đây không phải chỗ ta nên nhận. 

Con vừa nói rồi thì khi ấy có ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng: 

( Không phải là Đế Thích. Âúy là ma nó đến nhiễu loạn ông vậy! 

Như vậy đoạn này là Ngài Kỳ Thế tuy là Bồ Tát rồi, nhưng Ngài con tu hạnh rất thanh tịnh ở chỗ thất vắng. Tâm hồn Bồ Tát nhưng chưa nhập thế, còn yên tu thanh tịnh. Cho nên ma đánh lừa Ngài. Nó tới giả ra Thiên Đế Thích. Ngài tưởng thiệt là Thiên Đế Thích. Nó thưa hỏi xong xuôi, nó còn đem 1 muôn 2000 Thiên nữ cúng dường cho Ngài. Ngài nghĩ mình là người tu. Như vậy Bồ Tát này là Bồ Tát xuất gia phải không? Cho nên nghiêm trì giới luật, nói không được ông đem nhưng người này cúng cho ta là phi pháp. Ta không nhận. Lúc đó gặp ông Duy Ma Cật, tức là ông già bụi đời. Cho nên gặp ông thì ông nhận hết. Khi gặp ông rồi, ông liền giảng trạch cho Ngài Kỳ Thế biết rằng đó không phải là Thiên Đế Thích, mà là Ma Ba Tuần. Để cho Ngài biết Ngài đã lầm. Bây giờ đây là ông bắt đầu nói chuyện với ma. 

Ngài Duy Ma Cật liền nói với ma rằng: 

( Những người nữ này có thể đem cho tôi. Như tôi thì mới đáng mà nhận (Đáng thọ nhận). 

Ma liền hoảng sợ, nghĩ rằng ông Duy Ma Cật đâu không làm não hại ta. Muốn ẩn hình đi (tức muốn tàng hình trốn đi) mà không thể ẩn. Dùng hết thần lực của nó cũng không thể đi được. Liền nghe trong hư không có tiếng rằng: 

( Ba Tuần, hãy đem những người nữ này cho đi (nghĩa là cho ông đó) thì mới có thể đi được. 

Ma vì sợ nên mới miễn cưởng mà cho (sợ quá miễn cưỡng cho. Khi ma cho thì Ngài nói làm sao.). Khi ấy Ngài Duy Ma Cật mới bảo những người nữ ấy rằng: 

( Ma đã đem các chị cho tôi rồi. Này các chị đều phải phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác

Mình giải nghĩa có đầu đuôi gốc ngọn. Lát chị, lát ngươi, nghe lộn xộn. Ăn nói không có trật tự, phải không? Nếu là chị thì chị hết. Ngươi thì ngươi hết. Gặp chữ “tỷ” thì gọi là chị. Gặp chữ “nhĩ” thì gọi là ngươi. Cũng nói với mấy người đó thôi mà sao lộn xộn vậy. Cho nên ở đây phải biết rõ. 

Liền tùy căn cơ thích hợp mà vì nói pháp, khiến cho các vị đó phát đạo ý. Lại nói rằng: 

( Các chị đã phát đạo ý, có pháp lạc có thể tự vui. Không nên lại vui theo ngũ dục nữa. 

Các Thiên nữ liền hỏi rằng: 

( Những gì là pháp lạc? 

Ngài đáp rằng: 

( Cái lạc thường tin nơi Phật. Cái lạc vốn nghe pháp. Cái lạc cúng dường chúng Tăng

Như vậy 3 cái vui đầu của người học đạo. Cái vui thứ nhất là tin Phật. Cái vui thứ 2 là nghe pháp. Cái vui thứ 3 là cúng dường chúng Tăng. Đó là ba cái vui. Ba cái vui đầu là vui về Tam bảo. Rồi tới cái vui kế, vui lìa ngũ dục

Vui quán ngũ ấm như là quán tặc. Vui quán tứ đại như là rắn độc. Vui quán nội nhập như là cái xóm rỗng1 (hay là cái nhóm rỗng). 

Mấy cái vui này là vui gì? Ba cái vui trước là vui đối với tam bảo. Vòn vui lìa ngũ dục. Vui quán 5 ấm như quán tặc. Vui quán tứ đại như rắn độc. Vui quán các nhập hay là nội nhập như là nhóm rỗng. Cái vui đó là vui về cái gì? Vui nhìn vào cái thân của mình. Thân của mình đầu tiên thì phải làm sao? Lìa ngũ dục. Lìa ngũ dục đó là vui. Rồi vui xét thấy thân 5 ấm này như oán tặc, tức là như giặc thù. Năm ấm làm sao như giặc thù? Bởi vì thân 5 ấm này luôn luôn là phiền nhiễu, luôn luôn là khổ đau. Cho nên nói không có cái gì là vui thích. Không có cái gì đáng cho mình phải mến yêu, mà mình lại lầm sanh ra mến yêu nó. Cho nên phải quán thân năm ấm này như là oán tặc. Rồi vui quán tứ đại như 4 con rắn độc, nó chực hại nhau. Mình hằng quán thích quán như vâỵ, đó là vui. Rồi vui quán nội nhập, tức là lục nhập của mình, như là một nhóm rỗng vậy thôi, không có cái gì thật hết. 

Như vậy trong mấy cái vui, cộng lại mấy cái? Vui lìa ngũ dục là một. Vui quán 5 ấm như oán tặc là 2. Quán tứ đại như rắn độc là 3. Vui quán lục nhập như nhóm rỗng là 4. Bốn cái vui này là nhìn thẳng vào thân của mình. 

Vui tùy hộ đạo ý. Vui làm lợi ích cho chúng sanh. Vui cung kính bậc sư trưởng

Ba cái vui này về cái gì? Tùy hộ đạo ý tức là vui tùy hỷ. Ai có tâm đạo mình bảo bọc cho họ để tâm đạo không bị mất, không bị lui sụt. Đó cũng là cái vui của mình. Vui làm lợi ích cho chúng sanh. Rôi vui cung kính các bậc sư trưởng. Hay là vui cúng dường cung kính các bậc sư trưởng. Đó là ba cái vui bên ngoài, thầy bạn. Rồi tới cái 

Vui rộng làm việc Bố thí. Cái vui để gìn giữ giới cho được vững vàng. Cái vui nhẫn nhục được như hòa. Cái vui siêng năng làm các căn lành. Cái vui thiền định không có loạn. Cái vui lìa cấu được trí tuệ sáng suốt

Mấy cái vui này thuộc về vui gì. Cái gì? Là cái vui lục độ phải không? Thứ nhất là vui Bố thí. Thứ hai là vui Trì giới. Thứ 3 là vui Nhẫn nhục. Thứ 4 là vui Tinh tấn. Thứ 5 là vui Thiền định. Thứ 6 là vui Trí tuệ. Mỗi khi làm một pháp đều có lợi ích của riêng nó. Cho nên Thiền định thì tâm không loạn. Trí tuệ thì lìa được cấu. 

Vui rộng phát tâm Bồ đề rộng rãi. Cái vui hàng phục các ma. Vui đoạn các thứ phiền não. Vui là thanh tịnh cõi nước Phật. Cái vui thành tựu những tướng tốt. Cho nên tu các công đức cái vui trang nghiêm đạo tràng

Như vậy mấy cái vui? Vui khi phát Bồ đề tâm rộng lớn. Vui hàng phục các ma. Rồi vui đoạn trừ phiền não. Vui là thanh tịnh cõi nước Phật. Vui thành tựu các tướng tốt. Vui trang nghiêm đạo tràng. Mấy cái vui đó là vui tu những công đức để được dứt hết phiền não. Dứt hết các ma và trang nghiêm cõi Phật, trang nghiêm đạo tràng

Vui nghe những pháp thâm sâu mà không sợ. Vui ba môn giải thoát chẳng ưa việc phi thời

Hai cái vui này, vui nghe pháp mà thích tam giải thoát môn (tam giải thoát môn là không, vô tướng, vô nguyện). 

Vui gần những người đồng học. Vui đối với những người không phải đồng họctâm không giận cũng không có ngại. Vui đem sự bảo hộ những người ác tri thức. Vui gần gũi những thiện tri thức

Mấy cái vui này nó hơi khó. Vui thứ 1 gần gũi bạn đồng học thì dễ phải không? Cái vui thứ 2 là những người không phải là bạn đồng họctâm không có sân, cũng không có ngại với họ nữa. Vui đó dễ hay khó. Người đó không phải là bạn đồng học tức người không phải cùng một tư gống mình, cùng một tâm trọng tu hành giống mình. baay giừo họ ngược ngạo với mình, mình sống chung với họ, mình không giận, cũng không có chướng ngại gì hết. Vui đó dễ hay khó? Cái đó ráng tập vui đó. Vui đó mới là vui tiến bộ dữ à! Kế đó vui đem bảo bọc cho những người ác tri thức nữa. Thiện tri thức mình bảo bọc phải rồi, bổn phận phải không? Aïc tri thức mình cũng bảo hộ họ nữa. Như vậy cái vui đó dễ hay khó? Người mình biết là ác tri thức đó, mình làm sao? Mình ghét. Tìm cách này cách nọ cách kia, mình tống họ đi phải không? Họ đi được là vui. Bây giờ họ ở mình mình phải vui với họ đó dễ hay khó. Như vậy mà vui được đó mới thật là học hạnh của Bồ tát. Các khó làm của người tu theo hạnh Bồ tát là ở chỗ đó. Những cái thông thường, hợp đạo, hợp lý mình vui thì phải. Cái không hợp đạo lý mà mình cũng vẫn vui với họ. Điều đó hết sức là khó. 

Như vậy hai phần ở đây thấy rõ. Phần thứ nhất là gần những bạn đồng học, đó là người thuận chiều. Phần thứ 2 là những người không đồng học mà mình cũng không giận, không ngại, đó là cái nghịch chiều. Rồi tới cái sau là đối với thiện tri thức thì mình gần gũi. Thân cận, gần gũi đó thuận chiều. Ác tri thức mà mình vẫn bảo hộ họ, đó là nghịch chiều. Như vậy hai chiều thuận và nghịch mình vẫn xử sự đều tốt hết. Đó mới là tâm của Bồ Tát

Vui tâm hỷ thanh tịnh. Vui tu vô lượng đạo pháp (hay là đạo phẩm). Ấy là pháp vui của những vị Bồ Tát

Như vậy các pháp vui của Bồ Tát, ở đây quí vị thấy mình dễ được cái pháp vui đó không? Nghĩa là vui tâm tùy hỷ được thanh tịnh. Vui tu hết vô lượng đạo pháp. Cái đó tương đối cũng dễ. Còn mấy cái trên thật là khó. Nhưng muốn được nguồn vui đó mình phải ráng hằng ngày, hằng tháng, hằng năm huân tập những tính tốt. Những tính tốt: Nhẫn nhục, nhu hòa để tránh những điều trái mà mình không bị chướng. 

Khi ấy Ba Tuần mới bảo những Thiên nữ rằng: 

( Tôi muốn cùng các vị trở về Thiên cung

Các vị Thiên nữ mới nói: 

( Đã đem chúng tôi cho ông Cư sĩ này rồi, có pháp vui, chúng tôi rất là vui. Không có trở lại vui cái vui ngũ dục nữa. 

Mới giảng sơ mấy bà đã được vui rồi, phải không? Còn quý vị nghe có vui chưa? Như vậy thì thua, thua mấy bà Thiên nữ ở trên kia. Cho nên phải biết, cái pháp Bồ Tát nó khó nhưng người có tâm dễ nhận dễ hiểu đó là cũng có chủng tử tốt rồi. Nhiều khi chúng ta cứ môt bề nói họ là ma thì cho họ là đủ thứ xấu hết. Nhưng biết đâu ma phát tâm cũng tốt vậy. còn nhiều khi mình tu mình tốt. Cũng có khi mình cũng có phát tâm xấu vậy, phải không? Cho nên đừng lầm cho ma 1 bề xấu hết. Có khi nó cũng tốt. 

Ma vương liền nói với cư sĩ

( Ông có thể xã những người nữ này (Bây giờ ông mới lấy đạo lý nói đây). Tất cả những cái gì mình có mà đem thí cho người, ấy mới gọi là Bồ Tát

Nếu ông tu Bồ Tát hạnh thì tất cả cái gì mình có nên thí cho người mới gọi là Bồ Tát. Bây giờ thôi thí hết mấy người nữ này trả về cho tôi, Ngài mới là Bồ Tát hạnh chớ. 

Ông Duy Ma Cật liền bảo: 

( Tôi đã xả rồi. Ông hãy đem những người đó đi, khiến cho tất cả chúng sanh được cái pháp nguyên đầy đủ. 

Tôi xả, muốn nguyện cho tất cả chúng sanh đều được pháp nguyện đầy đủ. 

Khi ấy những vị Thiên nữ hỏi ông Duy Ma Cật rằng: 

( Chúng tôi làm sao mà ở trong cung ma được? 

Ông Duy Ma Cật mới nói: 

( Vì phát Bồ Đề tâm rồi. Mà pháp Bồ Đề tâm thì ra khỏi cung ma chớ ở cung ma sao được. Này các chị, có pháp môn tên là Vô Tận Đăng. Các chị phải học Vô Tận Đăng đó. Thí như có ngọn đèn sáng, rồi mồi trăm ngàn ngọn đèn, những chỗ tối đều sáng. Sáng trọn không cùng tận. Như thế các chị phàm một vị Bồ Tát đã mở được đạo (tức là đã khai mở con đường đạo) thì trăm ngàn chúng sanh khiến đều được phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Đối với đạo kia ý cũng không có diệt hết. Tùy chỗ nói pháp mà tự tăng trưởng lợi ích tất cả pháp lành, ấy gọi là Vô Tận Đăng

Bây giờ ông mới giảng pháp Vô Tận Đăng cho mấy vị ma nữ này biết. Tuy rằng ở trên cung ma nhưng một người đã sáng, thì giống như một ngọn đèn đã thắp sáng thì có trăm ngàn ngọn đèn khác đem tới mồi đều sáng, phải không? Một ngọn đèn sáng, thì trăm ngàn ngọn đèn khác mồi cũng được sáng. Mà trăm ngàn ngọn đèn mồi đều sáng, thì còn chỗ nào tối không? Tất cả chỗ tối đều sáng hết. Như vậy gọi đó là Vô Tận Đăng. Bây giờ quí vị đã phát tâm Bồ Đề rồi thì lên cung ma hướng dẫn người ta. Khai đạo tức là hướng dẫn người ta cho được trăm ngàn chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ đề nữa. 

Như vậy đối với đạo ý của những người đó nó không có diệt hết. Tùy chỗ nói pháp làm cho tăng trưởng những điều lành. Đó gọi là Vô Tận Đăng

Các chị tuy ở trong cung ma, do pháp Vô Tận Đăng này khiến cho vô số Thiên tử, Thiên nữ phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác để mà đền ơn Phật, cũng là làm lợi ích cho tất cả chúng sanh vậy. 

Như vậy ở ngay trong cung ma mà đem pháp Phật này để giáo hóa cho người ta đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vậy là đền ơn Phật, là làm lợi ích cho chúng sanh. Đó vẫn là tốt, vẫn làm đạo được. 

Khi ấy Thiên nữ đầu lễ dưới chân ông Duy Ma Cật rồi đi theo ma trở về cung, bổng nhiên chẳng hiện. 

Bạch Thế Tôn! Ông Duy Ma Cậtthần lực trí tuệ biện tài tự tại như thế cho nên con không kham đến thăm bệnh ông. 

Như vậy đoạn này có ý nghĩa thế nào? Bởi vì lâu nay chúng taquan niệm kêu bằng hơi chấp cứng, chấp chặt, cái gì là ma là cía đó đáng ghét, đáng sợ, phải không? Có ai không sợ ma không? Bởi vì ma là cái gì đáng ghét, cái gì đáng sợ. Tưởng chừng ma không bao giờ phát tâm Bồ đề được. Tưởng không bao giờ ma chịu tu phải không? Mình luôn luôn nói phá sự tu. Phá tu thì làm gì ma tu được. Nhưng ở đây cái hình ảnh ma phát tâm Bồ đề để cho chúng ta thấy rằng, ma là ngầm nói lên những người xấu, người ác. Những kẻ xấu, ác, chúng ta cứ quan niệm người nào xấu, người nào ác là người đó không thể tu. Nhưng đó là tại mình chưa có phương tiện phải không? Bởi mình chưa đủ phương tiên. Cũng như ở đây Ngài Kỳ Thế cũng là Bồ tát nhưng nó nói gạt Ngài, Ngài cũng bị gạt tỉnh bơ, phải không? 

Còn ông Duy Ma Cật cũng là hạnh Bồ tát nhưng thấy nó liền biết. biết liền ngay trong khi nói tới, nó phá, nó làm nhiễu loạn Bồ tát. Ngược lại Ngài Duy Ma Cật giáo hóatrở thành phát tâm Bồ đề. Như vậy ma thật xấu hay là không xấu. Sở dĩ ma 1 bề nhiễu loạn chúng ta là tại sao? Tại vì chúng ta không có cái phương tiện phải không? Không có đủ sức thần thông phương tiện để chuyển hóa nó, cho nên nó phá chúng ta. Ngược lại chúng ta có đủ phương tiện thì chúng ta chuyển nó được. 

Như vậy qua câu chuyện này chúng ta lại càng thấy rõ hơn những người chung quanh mình. có nhiều người cho là xấu, là ác, không thể xài được. Cái đó lỗi tại họ mà cũng lỗi tại ai nữa? Tại sao mình lỗi? Tại mình chưa đủ trí tuệ, tài năng để chuyển họ. Chớ nếu ai đủ trí tuệ, tài năng thì cũng chuyển họ được. Như vậy họ là bẩm sinh không tốt rồi chúng ta chũng thiếu tài ba nữa, phải không? Như vậy họ 1 phần lỗi, mình cũng 1 phần lỗi, chứ đừng đổ trút cho họ hết. Cái thứ này xài không được. Không phải vậy. cũng có cái lỗi là mình không nổi hay là mình không đủ khả năng để chuyển hóa họ. 

Như vậy quý vị thấy 2 vị Bồ tát, ông Bồ tát xuất gia, ông Bồ tát cư sĩ, phải không? Mà ông Bồ tát xuất gia bị nó gạt. Ông Bồ tát cư sĩ lại giáo hóa được nó. Như vậy đâu phải là 1 bề ma chỉ có hại người thôi. Ma nếu khéo chuyển thì nó cũng phát Bồ đề tâm được vậy. Cho nên dù cho kẻ trộm, kẻ cướp, những kẻ xấu xa, nếu chúng ta có đủ phương tiện, có đủ đức độ, cũng có thể cảm hóa nó được, chứ không phải là kẻ thường thôi. Còn cảm hóa không được là chứng tỏ ta chưa đủ tài năng đức độ. Chứ không phải một bề trút tội trên đầu họ hết, mà mình cũng có một phần trách nhiệm trong đó. Hiểu như vậy, thấy như vậy mình mới là người sáng suốt, là người thực công bình. 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19737)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23991)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41249)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19722)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24031)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21755)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23331)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27521)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26587)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29354)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33232)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20216)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25801)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20945)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31357)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38615)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21465)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44301)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29863)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42251)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22161)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45805)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32144)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23987)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24423)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29312)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33944)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27711)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32185)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21102)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28879)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28113)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22091)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21458)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19540)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19491)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19850)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19282)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29231)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20643)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28323)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23675)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33230)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31878)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21416)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39668)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21588)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19405)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26432)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24856)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21774)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22414)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29167)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20486)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23560)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21259)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35376)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24576)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant