Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 8. Tập Hợp Bộ Kinh

16 Tháng Chín 201100:00(Xem: 9199)
Chương 8. Tập Hợp Bộ Kinh

HƯỚNG DẪN ĐỌC TAM TẠNG KINH ĐIỂN
Gs. U KO LAY (Yangon, Miến Điện)
Phật Lịch: 2546 - Dương Lịch: 2003 - Miến Lịch: 1365
Nguyên tác: "Guide to Tipitaka" Tỳ khưu ni Huyền Châu dịch

CHƯƠNG VIII

TẬP HỢP BỘ KINH

Trong số năm bộ kinh, Tập hợp bộ kinh (Tiểu bộ kinh) chứa một số lớn nhất những luận thuyết (như được liệt kê dưới đây) và nhiều phạm trù pháp nhất. Mặc dù từ 'khuddaka' nghĩa đen là 'tiểu' hay 'nhỏ', nội dung thực sự của bộ sưu tập nầy không vì lý do gì có thể bị xem là tiểu,nó gồm tương đương hai tạng chính, đó là, tạng Luật và Tạng Kinh, theo hệ thống phân loại. Tính chất tập hợp của bộ sưu tập nầy, gồm không những chỉ những bài kinh do Đức Phật thuyết mà còn là bộ sưu tập những ghi chú lý thuyết ngắn gọn hầu hết bằng kệ thơ, những bản hùng ca của cuộc tự phấn đấu và thành đạt của chư vị Trưởng Lão Tăng cũng như Trưởng Lão Ni, sự tích tiền thân, lịch sử Đức Phật v.v...có thể giải thích cho tiêu đề của nó.

Sau đây là danh sách những luận thuyết như đã được Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng lần thứ sáu (Yangon, Myanmar) công nhận:

TẬP HỢP BỘ KINH:

(a) Tạng Luật

(b)Tạng Luận

(c) Những bài Kinh không gồm trong bốn bộ kinh đầu tiên

1) Tập Hợp Kinh
2) Kinh Pháp Cú
3) Phật Tự Thuyết
4) Phật Thuyết Như Vậy
5) Kinh Tạng
6) Vimānavatthu
7) Ngạ Quỷ sự
8) Trưởng Lão Tăng Kệ
9) Trưởng Lão Ni Kệ
10) Chuyện Tiền Thân
11) Niddesa Đại, Tiểu)
12) Phân Tích Đạo
13) Apadāna
14) Phật Sử
15) Hạnh Tạng
16) Netti
17) Petakopadesa
18) Mi Tiên Vấn Đáp

(1) Tập Hợp Kinh

Phần đầu trong Tập Hợp Kinh nầy, Khuddaka pātha, gồm có "những bài học về những đoạn nhỏ" hầu hết cũng được tìm thấy trong những phần khác của Tam Tạng Kinh Điển. Đó là bộ sưu tập gồmchín công thức ngắn và những bài kinh được dùng như sách giáo khoa cho sa di đang học tập, đó là (a) Tam Quy, (b) Thập Giới, (c) Ba Mươi Hai Thể trược (d) Những Pháp đơn giản cho sa di dưới dạng sách Giáo Lý Vấn Đáp, (e) Hạnh Phúc Kinh, (f) Linh Bảo Kinh, (g) Kinh Tirokutta, (h) Kinh Nidhikanda và (i) Kinh Từ Bi.

Quy Y Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng, bằng cách cung kính đọc ba câu sau đây, "Con đem hết lòng thành kính quy y Phật, Con đem hết lòng thành kính quy y Pháp, Con đem hết lòng thành kính quy y Tăng." Là hành động có ý thức diễn tả đức tin trọn vẹn vào Tam Bảo, không chỉ là lời bày tỏ niềm tin hời hợt thiển cận cũng không phải nghi lễ của lòng mộ đạo theo truyền thống. Hành dộng nầy gồm (i) thái độ khiêm tốn của mình; (ii) Nhận Tam Bảo như là những nguyên tắc chỉ đạolý tưởng của mình; (iii) Nhận là đệ tử và (iv) Tỏ Lòng tôn kính Tam Bảo.

Trong phần về "Câu hỏi dành cho bé", pháp được cắt xén cho thích hợp với tư duy của trẻ.

Một là gì? Chất bổ dưỡng duy trì mạng sống của chúng sanh.

Hai là gì? Tâm và Vật Chất

Ba là gì? Ba loại cảm thọ: Lạc, Khổ và Trung tính

Bốn là gì? Bốn Sự Thật Cao Quý

Năm là gì? Năm Uẩn chấp thủ

Sáu là gì? Sáu cơ quan cảm giác (lục căn)

Bảy là gì? Bảy Yếu Tố Giác Ngộ

Tám là gì? Con Đường cao thượng gồm Tám chi

Chín là gì? Chín Cảnh Giới hay chín loại chúng sanh

Mười là gì? Mười Bất Thiện Nghiệp

Mahā Mangala Sutta, bài kinh về phúc lành cao thượng, là bài kinh được Phật tử trong nhiều nước có Phật Giáoquốc giáo ưa thích đọc và áp dụng nhiều nhất. Đó là bản tóm tắt toàn diện về đạo đức Phật Giáo đối với cá nhân cũng như xã hội, được viết thành văn vần rất hay. Ba mươi tám điều hạnh phúc được liệt kê trong bài Kinh như những lời hướng dẫn chắc thật xuyên suốt đời người bắt đầu với lời khuyên 'Không gần gũi kẻ ác' và đưa ra lý tưởng và các pháp hành cơ bản hầu tiến bộ về đạo đứctâm linh, đem lại lợi íchhạnh phúc cho cá nhân, gia đìnhxã hội. Hạnh phúc cuối cùng là tâm phát triển cao, luôn giữ được trầm tĩnh trước những thay đổi thất thường của vận mạng, không bị ưu sầu làm ảnh hưởng, tẩy sạch mọi phiền não và như thế đạt giải thoát- tâm của bậc Thánh A -La- hán.

Khuddaka pātha là một bộ sưu tập gồm chín công thức và những bài kinh được sắp xếp trong cách như thế để hình thành một chủ đề liên tục chứng minh pháp hành của đời sống phạm hạnh: Cách một người chấp nhận giáo lý của Đức Phật bằng Quy Y Tam Bảo, rồi phép thọ trì Thập Giới để thanh tịnh tâm. Kế đó, người ấy nhận đề mục thiền, quán ba mươi hai thể trược, phát triển tâm không dính mắc. Kế đến, người ấy được chỉ về giới và phước của việc cho ra, cách người ấy đem lại thiệt thòi cho chính mình vì không thực hành việc phước thiện. Trong lúc đó, người ấy thường đọc tụng Hạnh Phúc Kinh để bảo vệ mình và đọc Linh Bảo Kinh để hộ trì người. Cuối cùng người ấy rải tâm từ đến tất cả chúng sanh, nhờ đó giữ mình an toàn khỏi tai hại, cùng lúc đó đắc định ở các tầng thiền, cuối cùng sẽ dẫn đến mục đích của đời sống tâm linh, Niết Bàn, bằng Tuệ - Đạo.

(2) Kinh Pháp Cú

Kinh Pháp Cú là một cuốn sách trong Tam Tạng Kinh Điển phổ biếnnổi tiếng trong các nước quốc giáo mà còn các nước khác nữa. Kinh Pháp Cú là một bộ sưu tập những lời dạy của Đức Phật hay những nguyên tắc tinh yếu và cơ bản của Giáo Pháp. Sách gồm 423 bài kệ được sắp xếp theo những chủ đề trong 26 chương.

Bài kệ 183 ghi lại cô đọng giáo pháp của Đức Phật. Không làm các việc ác. Chăm làm các việc lành, Lọc tâm ý trong sạch. Mỗi bài kệ gói gọn tinh hoa của Chân Lý soi sáng con đường của người lữ hành. Nhiều bài kệ Pháp Cú được tìm thấy trong bài viết và lời nói hằng ngày của Phật Tử. Người ta có thể tiếp nhận được nhiều dưỡng chất và nguồn động viên tinh thần trong kinh Pháp Cú không chỉ để phát triển tâm mà còn trong sinh hoạt hằng ngày nữa.

Kinh Pháp cú mô tả con đường mà người lữ hành nên theo. Trong ba bài kệ 277, 278 và 279 nói rằng tất cả các pháp hữu vi đều thoáng qua và vô thường, tất cả các pháp hữu vi đều khổ, tất cả các pháp hữu vi đều không có thực chất, không thể có khả năng được gọi là của ta (vô ngã). Khi người ấy thấy bản chất thực của các pháp với Tuệ Quán, vị ấy sinh nhàm chán thân ngũ uẩn. Lúc vỡ ảo tưởng như thế dẫn đến con đường thanh tịnh (Niết Bàn).

Bài kệ 243 định nghĩa dạng cao nhất của bất tịnhvô minh (avijja) và diễn đạt rằng nỗi khổ trên đời có thể chấm dứt chỉ bằng quá trình diệt trừ tham ái, hay trước hết xa lánh tham đắm dục trần. Tham sân si được mô tả nguy hiểm như lửa và nếu chúng không bị kiềm giữ trong vòng thu thúc lục căn, thì đời sống hạnh phúc không thể có tại đây và sau nầy.

Tránh hai cực đoan, đó là đắm say dục lạchành khổ hạnh ép xác, con người phải theo Trung Đạo, Bát Chánh Đạo - Con Đường Cao Thượng gồm tám chi để đạt đến an lạc tuyệt hảo - Niết Bàn. Đạt đến Thánh đạo thấp nhất- Nhập Lưu- trên lộ trình nầy do Đức Phật chỉ dạy được ưa chuộng hơn thậm chí có tài sản khắp nơi trên thế giới (kệ 183).

Kinh Pháp Cú nhấn mạnh rằng tự mình làm nên hay tự mình làm hại chính mình, và không ai khác có thể giúp mình diệt trừ bất tịnh (vô minh). Ngay cả chư Phật không thể giúp được; quý ngài chỉ có thể chỉ đường hướng dẫn; một người chỉ có thể chỉ đường và hướng dẫn; tự mỗi người phải nổ lực.

Kinh Pháp cú chứa những viên ngọc văn chương tuyệt hảo, có nhiều ví dụ thích hợp và những chân lý phổ biến và như thế được tìm thấy bởi độc giả trên thế giới lời kêu gọi và mở mang trí tuệ. Kinh Pháp cú phục vụ như bản tóm tắt những nguyên tắc và đặc tính tinh yếu của Phật Pháp cũng như của trí tuệ trong tất cả mọi thời đại.

(3) Phật Tự Thuyết - Kinh Udāna

Udāna là lời cảm ứng thốt lên do cảm xúc mạnh đặc biệt nào đó. Tập nầy gồm tám mươi lời cảm hứng hoan hỷ do Đức Phật thốt lên vào những trường hợp độc nhất vô nhị của niềm tịnh lạc hoàn mãn; mỗi lời cảm hứng bằng văn vần được ghi cùng với một bản văn xuôi mô tả hoàn cảnh đưa đẩy để Ngài thốt lên những lời đó.

Ví dụ, trong Chương Bồ đề, bài kinh thứ nhất được ghi lại lời đầu tiên được Đức Phật vừa mới chứng Chánh Đẳng Chánh giác cảm hứng ngân lên trong ba khổ thơ đầu với lời mở đầu tuyệt vời:

'Khi thực chất các pháp trở nên rõ
Đối với ẩn sĩ tinh cần hành thiền'

Trong bảy ngày sau khi Ngài Giác ngộ. Đức Thế Tôn ngồi dưới bóng cây bồ đề cảm nghe niềm tịnh lạc giải thoát. Vào cuối bảy ngày, Thế Tôn xuất định nầy (Phala samāpatti), cân nhắc đến lý Duyên Khởi: Khi cái nầy có thì cái kia có, vì cái nầy sanh nên cái kia sanh; khi cái nầy diệt, cái kia diệt.

Trong đêm canh thứ nhất, khi duyên của tập khởi khổ uẩn nầy được quán triệt đến từng chi tiết theo chiều thuận (sanh), Thế Tôn thốt lên khổ thơ thứ nhất tràn đầy niềm vui:

'Khi thực chất các pháp trở nên rõ
Đối với ẩn sĩ tinh cần hành thiền,
Thì mọi nghi hoặc biến mất
Bởi vị ấy hiểu pháp cùng với nhân.'

Trong đêm canh thứ nhì, tâm Thế Tôn đang nghĩ đến lý Duyên Khởi theo chiều nghịch (diệt). Khi khổ diệt theo cách nầy được thấu hiểu hoàn toàn, Thế Tôn lại xúc động ngân lên khổ thơ thứ hai với lòng hân hoan

'Khi thực chất các pháp trở nên rõ
Đối với ẩn sĩ tinh cần hành thiền
Thì mọi nghi hoặc đều tiêu tan
nhận thức sự diệt của nhân.'

Trong đêm canh thứ ba, Đức Thế Tôn soát xét rất chi tiết công thức của lý duyên khởi Paticca Samuppada, trong cả hai cách sanh và diệt. Sau khi quán triệt rất thấu suốt học thuyết Duyên Khởi, Đức Thế Tôn ngân lên lời tuyên bố long trọng:

"Khi bản chất thực của các pháp trở nên rõ. Đối với vị ẩn sĩ đang tinh cần hành thiền thì như mặt trời rạng soi bầu trời đen tối. Vị ấy dũng mãnh cự tuyệt đám quân Ma-Ra."

(4) Kinh Phật Thuyết Như Vậy (Itivuttaka Pāḷi)

Cuốn thứ tư nầy gồm cả 112 bài kinh được chia thành bốn chương gồm cả văn vần lẫn văn xuôi, cái nầy bổ sung cái kia. Mặc dầu bản sưu tập nầy chứa những lời đầy hứng thú của Đức Thế Tôn như trong Udāna. Mỗi đoạn đều có câu 'Phật thuyết như vậy' đi trước và đọc như sổ tay cá nhân trong đó được ghi chép lại mhững lời súc tích ngắn gọn của Đức Thế Tôn.

Các chương (nipāta) biểu thị rằng bản sưu tập được liệt kê theo thứ tự pháp số như trong Tăng Chi Bộ Kinh. Như vậy Ekaka Nipāta là những đoạn đề cập đến một pháp: "Nầy chư tỳ khưu, tận diệt tham ái; Như Lai bảo đảm sẽ chứng ngộ bậc Bất Lai (Anāgāmī), nếu các con tận diệt tham ái."Trong Duka Nipāta, mỗi đoạn đề cập đến hai pháp: Có hai loại Niết Bàn - Niết bàn Hữu Dư (còn gọi là Phiền Não Niết Bàn), vẫn còn ngũ uẩnNiết Bàn Vô Dư, không còn Ngũ uẩn.

(5) Kinh Tập (Suttanipāta Pāḷi)

Cũng nổi tiếng như Kinh Pháp Cú, Suttanipāta cũng là một tác phẩm văn vần thỉnh thoảng có đôi lời giới thiệu bằng văn xuôi. Nó được chia thành năm Phẩm (i) Phẩm Rắn gồm 12 kinh; (ii) Tiểu Phẩm: 14 kinh; (iii) Đại Phẩm:12 kinh; (iv) PhẩmTám:16 kinh và (v) Phẩm Trên Đường Đến Bờ Kia (Pārāyana): 16 câu hỏi

Vài lời dạy quan trọng của Đức Phật được tìm thấy trong 12 bài kinh của Phẩm Rắn, có thể được thực hành trong đời sống hằng ngày:

"Bạn chân chính đời nay khó tìm;
Rất thường có bạn giấu lợi riêng
Tâm người bị ô nhiễmtự lợi
Vậy, phá tan ảo mộng; đi lang thang
Cô đơn, như con tê ngưu một sừng.' (Kinh Con Tê Ngưu Một Sừng)

"Không do giòng tộc thành kẻ bần cùng
Chẳng do nòi giống thành Ba la môn
Duy do hành động mỗi người mà ra.
Bần cùng- sang cả- cũng do tâm nầy.' (Kinh Kẻ Bần Cùng)

"Như mẹ giàu tình thương
Suốt đời luôn che chở
Đứa con một của mình
Hãy phát tâm vô lượng
Cùng tất cả sanh linh." (Kinh Từ Bi)

Phẩm Trên Đường Đến Bờ Kia đề cập đến mười sáu câu hỏi do mười sáu thanh niên Bà La Môn hỏi trong lúc Thế Tôn ngự tại điện Pāsānaka trong xứ Magadha. Thế Tôn trả lời từng câu hỏi cho nhóm thanh niên nầy. Biết ý nghĩa của mỗi câu hói và trả lời của Thế Tôn, nếu ai hành pháp như được chỉ dẫn trong kinh nầy, người đó có thể chắc chắn đến Bờ Kia - Niết Bàn.

(6) Thiên Cung Sự Kinh (Vimāna vatthu Pāḷi)

Vimāna nghĩa là nhà lớn đẹp, cung điện. Ở đây chỉ cõi trời có được do chúng sanh đã làm thiện nghiệp. Có 85 bài kệ chia thành 7 chương trong văn bản nầy; trong bốn chương đầu, chư thiên nữ đã cho một bản tường trình về những thiện nghiệp họ đã làm trong những kiếp trước khi còn là con người và làm sao họ làm thế nào họ được tái sanh vào cõi trời nơi những thiên cung huy hoàng tráng lệ đang chờ họ xuất hiện. Chư thiên nam kể chuyện của họ trong ba chương cuối.

Đại đức Mahā Moggallāna. Có thể viếng cõi trời thuật lại cho Thế Tôn những câu chuyệnchư thiênliên hệ đã kể cho Ngài. Đức Phật khẳng định những sự tích nầy bằng cách cung cấp thêm chi tiết cho bối cảnh của những sự tích đó. Những bài Kinh nầy cho thấy quan điểm rằng cõi người có rất nhiều cơ hội để thực hành thiện nghiệp. Những bài Kinh nầy có mục đích là phủ nhận tà kiến của những ai tin rằng không có gì tồn tại sau đời nầy (Đoạn Kiến) và những ai duy trì niềm tin rằng không có hiệu quả gì đối với bất kỳ hành động nào.

Về sự tích được miêu tả, năm sự tích liên quan đến những người đã được tái sanh vào cõi trời do tu tập đến quả Nhập Lưu trong những kiếp trước, hai sự tích về những người dã chấp tay tôn kính Đức Phật, một sự tích những người đã nói lời chúc mừng đến buổi lễ xây dựng Tăng viện; hai sự tích về những người đã vâng giữ giới luật trong sạchbố thí vật thực và phần còn lại kể về những ai đã được sanh vào cõi trời như quả thiện nhờ chỉ bố thí vật thực.

Những bản tường trình sinh động về đời sống của chư thiên trong những cõi trời khác nhau nhằm chỉ rõ rằng những chúng sanh ở cõi cao hơn không phải là những người bất tử, cũng chẳng phải là những người bất tử, cũng chẳng phải những đấng sáng tạo, mà cũng bị tiến hoá, duyên theo những quả của thiện nghiệp đời trước; rằng chúng cũng phải chịu những quy luật của vô thường, khổ và vô ngã và phải tự nổ lực để đạt đến trạng thái bất tử - Niết Bàn.

(7) Ngạ Quỷ Sự Kinh (Peta Vatthu Pāḷi)

"Sự tích về ngạ quỷ" là bản tường trình sinh động về tình trạng khốn khổ của những chúng sanh bị đoạ vào khổ cảnh như quả của ác nghiệp. Có 51 sự tích miêu tả đời sống khốn khổ của những người làm ác, trái hẳn đời sống xa hoa của chư thiên.

Nhằm nhấn mạnh lại hiệu quả ích lợi của bố thí; đố kỵ, ghen ghét, keo kiệt, tham lamtà kiến chứng tỏnguyên nhân đoạ vào khổ cảnh của loài ngạ quỷ. Cảnh khổ chính của cảnh nầy là chúng sanh bị án rất thiếu vật thực, áo quần và chỗ ở. Nếu thân quyến trước kia của người đó thực hành thiện nghiệp và chia phước đến người bất hạnh đó thì người ấy liền thoát khỏi khổ cảnh như thế. Trong Ngạ Quỷ Sự Tirokutta có bản tường trình đầy đủ chi tiết làm sao vua Bimbisāra làm vơi nỗi khổ ngạ quỷ của thân quyến trước kia của vua bằng cách dâng cúng vật thực, y phục và chỗ ở đến Đức Thế Tônhội chúng tỳ khưu, và chia phước đã tạo như vậy, đến ngạ quỷ- những người trước đây là thân bằng quyến thuộc của Đức Vua.

(8) Trưởng Lão Tăng Kệ
(9) Trưởng Lão Ni Kệ

Hai cuốn nầy tạo thành một bộ sưu tập những bài kệ hân hoan mãn nguyện của chừng 264 vị trưởng Lão Tăng và 73 vị Trưởng Lão Ni đã ngâm lên những bài nầy phát xuất từ nguồn cảm hứng và lòng tận tuỵ với Đạo Pháp. Những bài kệ cảm hứng nầy tuôn phát ra từ trong tâm của chư vị Tỳ Khưu Tăng - Ni sau khi đạt A-La Hán quả như là lời tuyên bố sự thành đạt của quý Ngài và cũng là tự sự nổ lực của quý ngài để dẫn đến giác ngộ cuối cùng.

Chúng ta có thể học từ những bài kệ hân hoan nầy, làm sao từ những sự kiện vặt vảnh trong đời sống, tình huống tầm thường có thể trở thành điểm xuất phát cho nổ lực tinh thần lên đến đỉnh cao là giải thoát tuyệt đối. Nhưng đối với vài vị trưởng lão tăng, tiếng gọi đó đã đến sớm với quý ngài, để từ bỏ đời sống gia đình và sống đời vô gia đình. Cuộc chiến đấu nội tâm gian khổ giữa hai lực lượng thiện ác. Quý Ngài đã chiến thắng nhờ quyết tâmkiên định. Những thằng thúc tham sân và si đã dứt lìa tan nát cả và quý ngài đã giải thoát. Trong lúc hân hoan toại nguyện, quý ngài đã ngâm lên những bài kệ hứng thú nầy để tuyên bố tự do và chiến thắng ba đám ma quân nầy. Vài vị trưởng lão tăng có những bài kệ đạt đến đỉnh cao của thơ ca khi họ kể lại đời sống độc cư an tịnh trong rừng thanh vắng, thiên nhiên xanh tươi cùng với môi trường thanh bình và trầm lắng thuận duyên cho việc hành thiền của quý ngài.

Mặc dầu những bài thơ trong Trưởng Lão Ni Kệ không xuất sắc nên thơ bằng Trưởng Lão Tăng Kệ trong việc diễn đạt sôi nổi tình yêu đời sống độc cư. Tuy nhiên chúng cũng phản ảnh lòng kính yêu vô hạn và quyết tâm không sờn của trưởng lão ni đã phấn đấu đạt đến mục tiêu cuối cùng. Một điểm đặc trưng trong cuộc đấu tranh của trưởng lão ni là rằng nhiều vị trong số họ nhận động lực cuối cùng tìm khuây khoả trong đời sống phạm hạnh từ sự mất quân bình về tình cảm mà họ đã cam chịu, ví dụ, mất những người thương yêu như trong trường hợp Patācārī, hay vì nỗi khổ vô cùng về cái chết của đứa con yêu như Kisā Gotami đã trải qua.

Cả hai Trưởng Lão Tăng và Trưởng Lão Ni Kệ cung cấp cho chúng ta những mẫu chuyện tuyệt vời cảm hứngsáng ngời, đầy cảm thông, quá thăng hoa, đầy nhân tínhtrung thực đối với đời sống, dẫn chúng ta đi trên con đường phạm hạnh làm hưng phấn khi tâm ta buồn nản, dẫn dắt ta vượt qua những xung độtcản trở nội tâm.

Những bài kệ nầy có thể thưởng thức đơn giản như những bài thơ có sức tưởng tượng tuyệt vời và lời thơ ý vị hay chúng có thể quan niệm như những thông điệp cảm hứngý nghĩa sâu sắc để nâng cao tâm hồn đến những mức độ cao nhất của sự thành tựu tâm linh.

"Lạy Trời mưa xuống!
Nhà con giờ có mái che
Cho con sống bình anthoải mái
Chở che con khỏi mưa bão đầu mùa.
Lạy Trời mưa xuống!
Mưa trút xuống mảnh đất tâm người
Tâm con giờ lặng yên và bất động
Bao xiềng xích tham sân si giờ đã lìa tan
Nhiệt tâm tinh cần, tâm bất thối chuyển
Lạy Trời mưa xuống!
Hãy trút xuống cho mảnh đất tâm người." (Bài Kệ 325)

Vị tỳ khưu giờ đã có 'nhà ngũ uẩn 'được ' mái và tường' của thu thúc lục căntrí tuệ che chở, phòng hộ kỹ. Như vậy vị ấy sống thoải mái, được hộ trì kỹ khỏi mưa bão của tham ái và dính mắc. Không bị quấy rầy bởi mưa sân hận, vô minh trút xuống và gió ngã mạn quay cuồng, vị ấy vẫn lặng yên trầm tĩnh, vô nhiễm. Mặc dầu vị ấy sống bình an tự tạigiải thoát như vậy, vị ấy vẫn chánh niệm tỉnh giác, luôn sẵn sàng ứng xử với sự khẩn cấp nào có thể phát sanh do thiếu chánh niệm.

(10) Sự tích tiền thân của Đức Phật (Jātaka Pāḷi)

Có nhiều sự tích về những kiếp trước của Đức Phật Gotama, trong khi ngài chưa thành Phật vẫn còn là bồ tát. Jātaka là một tác phẩm văn vần lớn về số lượng gồm 547 sự tích hay tiền kiếp được Đức Phật kể lại, (thường tham khảo trong các chương (nipāta) theo số của bài kệ liên quan đến mỗi sự tích, những sự tích có một bài kệ được xếp loại Ekaka Nipāta v.v... Chính Chú Giải căn cứ vào các loại kệ đã ghi lại hoàn tất sự tích tiền thân.

Trong những sự tích tiền thân nầy in sâu những nguyên tắc đạo đức và các pháp hànhbồ tát đã ứng dụng để tự phát triển và hoàn thiện hầu viên thành quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác.

(11) Niddesa Pāḷi

Cuốn nầy trong tập hợp bộ kinh gồm hai phần: Mahā Nidesa, phần trình bày chính, theo chú giải thuộc chương thứ tư (Atthaka) của Sutta Nipāta và Culla Nidesa, phần trình bày phụ, theo chú giải thuộc chương thứ năm (Pārayana) và về những bài kinh Khaggavisāna ở chương đầu tiên. Những tác phẩm bình luận nầy được quy cho Đại Đức Sāriputta gồm nhiều dữ liệu về Vi Diệu Pháp và tạo thành dạng sớm nhất của Chú Giải, cung cấp nhiều bằng chứng cho truyền thống chú giải nhiều thế kỷ trước khi Đại Đức Buddhaghosa (Phật Âm) xuất hiện trên văn chương Phật Giáo.

(12) Phân Tích Đạo (Patisambhida Magga Pāḷi)

Luận thuyết nầy, có tựa là Phân Tích Đạo, được quy cho Đại Đức Sāriputta. Đề cập có tính phân tích những giáo lý nổi bật của Đức Phật, được chia thành ba phẩm chính, đó là Đại Phẩm, Yuganaddha Phẩm và Tuệ Phẩm. Mỗi phẩm gồm 10 nhóm phụ, gọi là Kathā, chẳng hạn Trí Kathā, Kiến Kathā v.v...

Cách lý giải mỗi chủ đề rất chi tiếtcung cấp nền tảng lý thuyết rõ ràng cho pháp hành trên con đường giải thoát.

(13) Apadāna Pāli

tác phẩm sử học về sự tích cuộc đời Đức Phật (quá khứhiện tại) và các đệ tử A la hán của Thế Tôn. Nó được chia thành hai phần: Therāpadāna cung cấp sự tích cuộc đời Đức Phật, về 41 vị Độc Giác Phật và về 559 vị A la hán từ Đại Đức Sāriputta đến Đại Đức Ratthapāla; và Therīpadāna có sự tích cuộc đời của 40 vị A la hán trưởng lão ni từ Trưởng lão ni Sumedhā đến Trưởng lão ni Pesalā.

(14) Phật Sử (Buddhavamsa Pāḷi)

Phật sử là một bản tường trình ngắn về lịch sử Đức Phật Gotama và về 24 vị Phật trước kia đã thọ ký cho ngài viên thành Chánh Quả Vị Phật- Chánh Đẳng Chánh Giác. Cuốn nầy gồm 29 phần bằng văn vần.

Phần đầu tiên là bản tường trình về cách Đại Đức Sāriputta hỏi Đức Phật vào lúc ngài mới lần đầu tiên quyết định phục vụ nhằm Viên Thành Quả Vị Chánh Đẳng Chánh Giác và những ba la mật gì ngài phải thực hiện để hoàn thành mục đích Toàn Giác. Trong phần thứ hai, Đức Phật miêu tả cách Đức Phật Dīpankara gây cảm hứng cho ngài khi ngài còn là ẩn sĩ Sumedha và ngài phát nguyện thành Phật Chánh Đẳng Chánh Giác, và cách Đức Phật Dīpankara ban phước cho ẩn sĩ Sumeddha sẽ thành Phật hiệu là Gotama sau quãng thời gian là bốn Atăng Kỳ và một trăm ngàn đại kiếp.

Từ đó trở đi, Bồ Tát Sumedha tiếp tục thực hành mười ba la mật, đó là bố thí, trì giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, quyết định, từ và xả. Đức Phật liên hệ cách ngài thực hành mười ba la mật nầy, từ kiếp nầy qua kiếp khác, và cách trong mỗi trong hai mươi bốn vị Phật, xuất hiện sau Phật Dīpankara vào những khoảng giữa của mỗi đại kiếp, tiên đoán lại rằng ngài sẽ thành Phậtdanh hiệu là Gotama.

Trong phần từ ba đến hai mươi bảy là những bản tường trình về hai mươi lăm vị Phật kể cả Phật Gotama, giới thiệu chi tiết về mỗi vị Phật có liên quan đến nơi sinh, địa vị, danh tánh của phụ mẫu, danh tánh hiền thêhiếu tử, tuổi thọ, cách xuất gia, thời kỳ nổ lực để thành quả vị Phật, Giáo lý của Kinh Chuyển Pháp Luân tại rừng Migadāya, danh tánh các vị Đại Đệ Tử và những đệ tử cư sĩ chính của chư Phật. Mỗi phần được khép lại với bản tường trình về nơi chư Phật nhập diệt và cách xá lợi của chư Phật được phân chiathờ phụng.

Trong phần thứ hai mươi tám là danh tánh của ba vị Phật, đó là:Tanhankara, Medhankara và Saranankara sống trước Đức Phật Dipankara vào khoảng cách khác nhau của cùng một đại kiếp. Danh tánh của chư vị Phật khác (cho đến Phật Gotama) cũng được liệt kê cùng với tên của đại kiếp trong đó chư Phật xuất hiện trên đời sau Phật Gotama.

Phần cuối tường trình cách xá lợi của Phật được phân chia và nơi chúng được tôn thờ và bảo quản.

(15) Hạnh Tạng (Cariyā Pitaka)

Tạng nầy có ba mươi lăm sự tích về tiền thân của Đức Phật được kể lại theo lời thỉnh cầu của Đại Đức Sāriputta. Trong lúc Jātaka liên quan đến tiền thân của Đức Phật từ thời ẩn sĩ Sumedha, đến khi thành Phật Gotama, Hạnh Tạng chỉ nhắc đến ba mươi lăm tiền thân của Bồ tát trong đại kiếp cuối nầy.

Vị bồ tát nầy xuyên suốt vô số thời đại đã hoàn thành mười ba la mật trong thời gian dài không thể đếm được, Hạnh Tạng tường thuật lại những hàon thành như thế trong ba mươi lăm kiếp, chọn ra bảy trong mười Ba la mật và kể lại mỗi ba la mật được hoàn thành như thế nào trong mỗi của những kiếp nầy. Mười sự tích trong phẩm đầu tiên liên quan đế việc tích luỹ những đức tính trong Bố Thí vật thực, phẩm thứ hai có mười sự tích liên quan đến Xuất Gia ba la mật, một sự tích: Quyết Định ba la mật, sáu sự tích:Chân thật ba la mật, hai sự tích: Từ tâm ba la mật và một là Xả ba la mật.

(16) Netti và
(17) Petakosadesa

Hai tác phẩm nhỏ, Netti, có bảy chương, và Petakopadesa, có tám chương. Khác xa những cuốn trong Tam Tạng Kinh Điển bởi vì bản chất chúng thuộc thể loại bình luận và có phương pháp hệ.

(18) Mi Tiên Vấn Đáp (Milindapañhā Pāli)

Mi Tiên Vấn Đáp là cuốn cuối tạo thành Hỗn Hợp Bộ Kinh. Sách tường thuật những câu hỏi của Vua Milinda và những câu trả lời của đại đức Nagasena khoảng 500 năm sau Đức Phật Niết Bàn, Vua Milinda là nhà cai trị Yonaka (Hy Lạp) của xứ Sāgala. Vua là người rất uyên bác và rất khôn khéo trong thuật tranh luận. Đại Đức Nagasena, vị A la hán tròn đủ Tứ Vô Ngại Giải, trong chuyến viếng thăm xứ Sāgala theo lời thỉnh cầu của Tăng Đoàn.

Vua Milinda, người muốn được sáng tỏ vài điểm về Pháp, hỏi Đại Đức Nāgasena những câu hỏi khó hiểu liên quan đến bản chất con người, sự tồn tại của con người sau khi chết, và những phương diện học thuyết khác của Pháp. Đại Đức Nāgasena đã cho vua những câu trả lời rất thoả mãn về mỗi vấn đề được hỏi. Những câu hỏi và trả lời uyên bác về Giáo Pháp của Đức Phật được biên thành cuốn sách có tên là Mi Tiên Vấn Đáp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29900)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27182)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21773)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22234)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23614)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20432)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21950)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24760)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18994)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24772)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30988)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23995)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27766)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26528)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21330)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23233)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38142)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18807)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19991)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19053)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23176)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23893)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22822)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22927)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29589)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20648)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18714)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15850)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18865)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19690)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20160)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19958)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22949)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34183)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16425)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16922)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26084)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20102)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18864)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24069)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29154)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22906)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30970)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21014)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26862)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26269)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19825)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24691)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30049)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20232)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20411)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15146)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15842)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23911)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant