Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 10. Tạng Thắng Pháp

16 Tháng Chín 201100:00(Xem: 9211)
Chương 10. Tạng Thắng Pháp

HƯỚNG DẪN ĐỌC TAM TẠNG KINH ĐIỂN
Gs. U KO LAY (Yangon, Miến Điện)
Phật Lịch: 2546 - Dương Lịch: 2003 - Miến Lịch: 1365
Nguyên tác: "Guide to Tipitaka" Tỳ khưu ni Huyền Châu dịch

CHƯƠNG X

TẠNG THẮNG PHÁP

I. BỘ PHÁP TỤ (DHAMMASANGANĪ)

Bộ Pháp Tụ (Dhammasanganī), cuốn sách đầu tiên của Thắng Pháp, và Paṭṭhāna, cuốn cuối cùng, là hai cuốn quan trọng nhất trong bảy cuốn của Thắng Pháp, cung cấp như là cốt tử tinh hoa của Thắng Pháp.

Dự định Phân Loại trong Dhammasanganī:

(1) Mātikā

Dhammasanganī liệt kê tất cả các pháp (hiện tượng) nghĩa là, Tâm và Tâm sở, và Vật Chất (rūpa). Liệt kê những hiện tượng, chúng được sắp xếp dưới những tiêu đề khác nhau để làm rõ bản chất chân thực chức năng và quan hệ hổ tương cả nội giới (trong ta) và ngoại giới của chúng. Dhammasanganī bắt đầu với danh sách hoàn tất những tiêu đề gọi là Mātika. Mātika phục vụ như bản phân loại các tâm không những trong Dhammasanganī mà còn trong toàn bộ hệ thống Thắng Pháp.

Mātika gồm tất cả là 122 nhóm, trong đó 22 nhóm đầu tiên được gọi là Tika hay Triad (Tam Pháp), những pháp đó được chia thành dưới các mẫu đề; và 100 pháp còn lại gọi là Duka hay Dyad, những pháp đó được chia dưới tiêu đề là Nhị Mẫu Đề.

Các ví dụ của Tam Mẫu Đề là:

(a) Tam Pháp Thiện

- Pháp thiện, kusala
- Pháp bất thiện, akusala
- Pháp duy tác, abyakata

(b) Tam Pháp Thọ có câu hữu

- với thọ lạc
- với thọ khổ
- với thọ trung tính

Các ví dụ của Nhị Mẫu Đề là:

(a) Nhị Mẫu Đề Căn

- các pháp là các căn (hetu)
- các pháp không phải là các căn (na-hetu)

(b) Nhị Mẫu Đề có căn: Pháp

- câu hữu với căn
- không câu hữu với căn

Kết thúc Mātika là danh sách các phạm trù pháp có tên là Suttantika Mātika làm thành 42 nhóm pháp được tìm thấy trong các bài kinh.

(2) Bốn Phần

Căn cứ vào Matika nầy của Tam Mẫu Đề và Nhị Mẫu Đề, Dhammasanganī được chia thành bốn phần:

- Cittupāda Kanda: Phần về sự sanh khởi của tâm và tâm sở.

- Rūpa Kanda: Phần liên quan đến vật chất.

- Nikkhepa Kanda: Phần tránh chi tiết hoá

- Atthakathā Kanda: Phần phụ chú tóm tắt.

Trong bốn phần, hai phần đầu, đó là Cittuppāda Kanda và Rūpa Kanda tạo thành phần chính yếu của cuốn sách. Chúng đưa ra mẫu nghiên cứu kỹ lưỡng vào bản chất, đặc điểm chức năng và mối tương quan của mỗi pháp được liệt kê trong Mātika, bằng cách cung cấp việc phân tích mẫu ôn lại Tam Mẫu đề đầu tiên, đó là, đó là Tam Mẫu Đề Thiện, Bất Thiện và Duy Tác Pháp. Cittuppāda Kanda liên quan đến việc liệt kê hết thảy của tất cả những trạng thái tâm dưới các đề mục Thiện và Bất Thiện; Rūpakanda liên quan đến tất cả các trạng thái của vật chất đến dưới đề mục Duy Tác; Asankhata Dhātu (Niết Bàn) cũng được nói đến, không thể dùng ngôn từ để bàn về nó.

Nikkhepa Kanda, phần thứ ba, mô tả không quá chi tiết cũng không quá ngắn gọn, bản tóm tắt sự phân chia tất cả các Tam Mẫu Đề và Nhị Mẫu Đề, hầu nội dung và ý nghĩa đầy đủ của chúng sẽ trở nên bao quát và toàn diện.

Atthakathā Kanda, phần cuối của cuốn sách có cùng bản chất với phần ba, là một bản tóm tắt các pháp dưới những tiêu đề khác nhau của các nhóm Tam Mẫu Đề và Nhị Mẫu đề. Nhưng trong đó cung cấp tính cách cô đọng hơn. Như vậy bản phụ lục cuốn sách đầu tiên của Thắng Pháp để dễ ghi nhớ.

(3) Thứ tự và phân loại của các loại tâm được luận trong Cittuppāda Kanda

Trước hết, Cittuppāda Kanda giới thiệu các loại tâm được sắp xếp dưới ba tiêu đề của Tam Mẫu Đề đầu tiên, đó là, (i) Thiện Pháp nghĩa là Tâm Thiện và các tâm sở (iii) Duy Tác Pháp nghĩa là Tâm Không Xác định và các tâm sở của nó. Danh sách các tâm sở của mỗi pháp là khá dài và lập lại.

Việc diễn tả các loại tâm được diện theo loại đặc biệt, ví dụ- Thiện Pháp, trong hình dạng hỏi và đáp, liên quan đến cõi giới của tâm: Dục Giói (kamāvacara); Sắc giới (Rūpavacara), Vô sắc giới (Arūpavacara); Tebhūmaka liên quan đến Tam giới; hay Siêu Thế Giới (Lokuttara), không liên quan đến Tam Giới nầy.

Loại tâm của mỗi cõi lại được chia thành nhiều loại khác nhau, ví dụ; có tám loại tâm thiện dục giới: tâm thiện thứ nhất; tâm thiện thứ hai, v.v..., mười hai loại tâm bất thiện; tám loại tâm thiện Dị Thục Vô Nhân và tám loại tâm Dị Thục Hữu Nhân dưới tiêu đề Tâm Duy Tác.

Sau đó những loại khác nhau nầy được phân tích thêm tuỳ thuộc:

- Dhamma Vavatthana Vara nghĩa là tính chất đặc biệt, hoặc là câu hữu với hỷ v.v... nghĩa là với hỷ (somanassa), ưu (domanassa), lạc (sukha), khổ (dukkha), hay xả (upekkha)

- Kotthasa vara, nhóm pháp. Có 23 phạm trù của pháp, có kết quả từ nhóm tổng hợp pháp thành phạm trù riêng như là Khandhas: Ngũ Uẩn, Āyatana :Lục Căn, dhātu :Tứ Đại...

- Suññata Vāra, nhấn mạnh vào sự kiện rằng không có ta (atta) hay Jīva) sự sống đằng sau tất cả các pháp nầy; chúng chỉ những hỗn hợp, hình thành do nhân và duyên, không có vật chất nào tồn tại.

Phương pháp tương tự được phỏng theo các loại tâm bất thiện và duy tác.

(4) Rūpa Kanda

Bởi Dhammasanganī xếp các pháp (danh) cũng như vật chất trong hệ thống phân loại tương tự như nhau, Rūpa Kanda chỉ là sự tiếp nối sự phân chia của Pháp dưới những tiêu đề của Tam Mẫu Đề đầu tiên, có phần đầu tiên là Cittuppāda Kanda. Trong Cittuppāda Kanda, các pháp được liệt kê dưới tiêu đề 'Duy Tác' chỉ được làm một phần bởi vì loại pháp 'Duy Tác' chỉ được làm một phần bởi vì loại pháp Duy Tác gồm không những chỉ những trạng thái tâm, không thiện cũng không bất thiện mà còn tất cả các trạng thái của vật chất và Asankhatā Dhātu hay Niết Bàn. Pháp dưới tiêu đề Duy Tác đã bị bỏ ra khỏi Cittuppāda Kanda, được bàn kỹ trong Kanda nầy.

Phương pháp ở đây tương tự như, có sự khác nhau đối với tâm sở, những vật cấu thành vật chất, đó là bốn yếu tố chính (tứ đại) và những đặc tính vật chất chiết ra từ chúng cùng với những đặc điểm và những mối quan hệ của chúng được phân tích và xếp loại.

II. PHÂN TÍCH BỘ (VIBHANGA PĀḶI)

Cuốn thứ hai của Tạng Thắng Pháp -Phân Tích Bộ (Vibhanga) cùng với cuốn thứ nhất bộ pháp tụ (Dhammasanganī) và cuốn thứ ba Dhātukathā, hình thành một nền tảng có liên quan hệ chặt chẽ cho sự hiểu biết sâu sắc và thích hợp Giáo Lý của Đức Phật. Trong lúc Dhammasanganī có đôi mắt chim nhìn thấy toàn cảnh của các nhóm Tam Mẫu đề, Nhị Mẫu Đề với sự sắp đặthệ thống hơn dưới những tiêu đề được phân loại, Vibhanga và Dhātukathā giới thiệu cận cảnh của phần được chọn lọc trong những nhóm đó giới thiệu chi tiết tỉ mỉ hơn.

Như vậy, Koṭṭhāsa Vāra trong Dhammasanganī giải thích cái gì và bao nhiêu āyatana, dhātu, āhāra, indriya, jhānanga,v.v.. được kể trong Nhóm Tam Mẫu Đề và Nhị Mẫu Đề. Nhưng nó không cung cấp tin tức hoàn tất về pháp nầy. Chính Phân Tích Bộ cung cấp kiến thức đầy đủ về chúng, kể ra bản chất đích thực của mỗi pháp, những thành phần và mối quan hệ của nó đối với những pháp khác.

Phân Tích Bộ được chia thành 18 chương, mỗi chương đề cập đến phương diện đặc biệt của Pháp, phân tích và điều tra đầy đủ vào mỗi thành phần.

Sự sắp đặtliệt kê thành nhóm và tiêu đề theo hệ thống tương tự như trong Bộ Pháp Tụ.. Do đó, Phân Tích Bộ (Vibhanga) được xem như Chú Giải của Bộ Pháp Tụ (Dhammasanganī).

Phân Tích Bộ (Vibhanga) giải thích toàn diện những phạm trù sau đây của Pháp.

(i) Uẩn
(ii) Xứ
(iii) Lợi
(iv) Sự Thật
(v) Căn
(vi) Duyên Khởi
(vii) Niệm Xứ
(viii) Sammappadhana
(ix) Thần Thông
(x) Giác Chi
(xi) Đạo
(xii) Thiền
(xiii) Vô Lượng Tâm
(xiv) Học G iới
(xv) Tuệ Phân Tích
(xvi) Trí
(xvii) Hỗn Hợp Nhóm
(xviii) Tâm Pháp

Mỗi phạm trù được phân tích và thảo luận trong hay tất cả ba của phương pháp phân tích sau đây: Suttanta bhājanīya - ý nghĩa của các từ và sự phân loại các pháp được quyết định theo phương pháp Kinh (Suttanta); Abhidhamma bhājanīya - ý nghĩa của từ và sự phân tích các pháp được quyết định theo phương pháp Abhidhamma (Thắng Pháp); Pañcha pucchaka, thảo luận trong hình thức hỏi đáp.

Danh sách ở trên cho thấy 18 phạm trù và chúng được chia thành ba nhóm. Nhóm thứ nhất gồm từ số (i) - (vi) liên hệ đến những cấu thành của tâm và vật chất và hai định luậtbản chất mà chúng thường xuyên phải chịu đó là Luật Vô Thường và Luật Nhân Duyên. Nhóm thứ hai gồm từ số (vii) - (x) liên quan đến thực hành đời sống phạm hạnh đưa chúng sanh thoát khổ và vòng sanh tử luân hồi. Sáu phạm trù còn lại phục vụ như phần phụ lục cho hai nhóm trước, cung cấp tin tức đầy đủ và những chi tiết cần thiết.

III. DHĀTUKATHĀ PĀḶI

Dù cuốn thứ ba của Tạng Thắng Pháp là một luận thuyết nhỏ, nó được xếp cùng hai cuốn đầu tiên hình thành tam thuyết quan trọng, phải được tiêu hoá kỹ để hiểu đầy đủ Thắng Pháp. Vibhanga, cuốn thứ hai, có một chương hoàn toàn dành để phân tích các dhātu, nhưng chủ đề của dhātu quá quan trọng đến nỗi luận thuyết riêng biệt nầy dành cho nó sự quan tâm thấu đáo hơn. Phương pháp phân tích ở đây khác hẳn với phương pháp được dùng trong Vibhanga.

Dhātukathā nghiên cứu cách các pháp được liệt kê trong Tam Mẫu Đề và Nhị Mẫu Đề của Mātika liên quan đến ba phạm trù Khandha, āyatana và dhātu. Những phạm trù nầy được thảo luận trong 14 cách nghiên cứu phân tích bao gồm 14 chương của Dhātukathā..

IV. NHÂN CHẾ ĐỊNH (PUGGALAPAÑÑATTI PĀḶI)

Thắng pháp quan tâm chính đến việc nghiên cứu các sự thật trừu tượng bằng những thuật ngữ tuyệt đối. Nhưng khi diễn tả các pháp trong những phương diện khác, nó không thể chỉ sử dụng thuật ngữ tuyệt đối. Rõ ràng thuật ngữ quy ước của ngôn ngữ hằng ngày phải được sử dụngquy ước; loại thứ nhất liên quan đến những thuật ngữ diễn tả các pháp thực sự tồn tại trên thực tế và loại thứ hai mô tả những pháp không tồn tại trên thực tế.

Ba cuốn sách đầu tiên của Thắng Pháp điều tra sự thật tuyệt đối của trong một hệ thốngkế hoạch của việc phân tích chi tiết dụng những thuật ngữ như Khandha, Āyatana, Dhātu, Sacca, Indriya. Những thuật ngữ nầy chỉ những biểu thị để diễn đạt những vật có tồn tại và do đó được xếp vào loại như là sử dụng quy ước của loại thứ nhất. Đối với loại sử dụng quy ước thứ hai thuộc về việc diễn đạt như đàn ông, đàn bà, cá nhân,v.v.. chúng không tồn tại trên thực tế, nhưng dĩ nhiên là thiết yếu để truyền thông tư tưởng.

Do đó, nó trở nên cần thiết để phân biệt hai loại sự thật rõ ràng nầy. Nhưng như những thuật ngữ Khandha, Āyatana, Dhātu, Sacca và Indriya có liên hệ tỉ mỉ trong ba cuốn đầu, chúng chỉ đề cập ngắn gọn ở đây. Những thuật ngữ được dùng trong loại thứ hai liên hệ đến những cá nhân được đề cập nhiều hơn và kỹ hơn trong luận thuyết nầy; do vậy tựa của nó là Puggala paññatti, sự chế định của mỗi cá nhân. Những loại cá nhân khác nhau, cách liệt kê chúng được dùng trong Tăng Chi Bộ Kinh.

V. KATHĀVATTHU PĀḶI

Kathāvatthu, như Puggalapaññatti, ngoài hệ thống thông thường của Thắng Pháp. Nó không đề cập đến bản chất khó hiểu của pháp. Nó liên quan chủ yếu đến những tà kiến như "Người tồn tại, Ngã tồn tại, Linh Hồn tồn tại" - nổi bật ngay trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế hay những tà kiến như "Ala Hán rớt khỏi quả vị Ala hán" nổi lên sau khi Đức Phật Niết Bàn.

Khoảng 218 năm sau khi Phật Niết Bàn có tất cả là 18 phái, tất cả đều tuyên bố là những giáo lý của Đức Phật. Trong số nầy chỉ có Thượng Toạ bộ thực sự là chính thống, trong lúc đó những phái còn lại đều phạm tội ly giáo. Hoàng đế Asoka bắt đầu thanh lọc và sa thải những phần tử không trong sạch ra khỏi Tăng Đoàn với sự hướng dẫn và trợ giúp củaTrưởng Lão Moggaliputta Tisa- đã đắc A la hán. Dưới sự chỉ đạo của ngài, Tăng đoàn tổ chức hoà hợp Lễ Bát Quan Trai mà nó không được tổ chức trong bảy năm qua vì sự bất hoà chia rẽ và sự hiện diện của những Tỳ khưu giả mạo trong Tăng đoàn.

hội nghị đó, Đại Đức Moggaliputta Tissa giải thích những quan điểm và viết ra năm trăm lời tuyên bố chính thống và năm trăm lời tuyên bố của những quan điểm nầy được một ngàn vị trưởng lão được chọn và tham gia Hội Nghị Kết Tập Tam Tạng lần thứ ba, để hình thành Thắng Pháp Tạng.

VI. YAMAKA PĀḶI

Dhammasanganī, Vibhanga và Dhātukathā khảo sát Pháp và phân loại chúng như chúng tồn tại trong thế giới thực tại, gọi là Sankharaloka (Hành Giới), puggala paññatti và Kathāvatthu liên hệ đến chúng sanh và những nhân cách cũng tồn tại trong thế giới riêng của thực tại rõ ràng gọi là Sattaloka (Chúng Sanh Giới). Nơi pháp của Hành Giới và chúng sanh của Chúng Sanh Giới cùng tồn tại có tên là Okāsa Loka (Hiện Giới). Yamaka bắt đầu định nghĩa và phân tích sự tương quan của các pháp và những nhân cách khi chúng tồn tại trong tam giới nầy.

Cuốn nầy được hoàn thành trong dạng câu hỏi đôi vì vậy có tên là Song Đối (Yamaka). Tiến trình thuận của chuyển đổi (anuloma) và tiến trình nghịch (patiloma) được áp dụng để quyết định việc hoàn tất quy nhậpgiới hạn của một từ trong mối tương quan của nó với những pháp khác. Bản chất lập lờ của một từ (samsaya) được tránh nhờ chỉ rõ, bằng sự sắp đặt những câu hỏi được cân nhắc đặc biệt như thế, những nghĩa khác của từ không thích hợp như thế nào.

Những cặp song đối sau đây có thể được lấy làm ví dụ.

Đối với câu hỏi 'Có phải tất cả các vật chất có thể được gọi là Vật Chất Uẩn (Rūpakkhandha) không?' Câu trả lời là 'vật chất cũng được dùng trong những diễn đạt như 'bản chất đáng yêu' (piya rūpa), của bản chất như thế (eva rūpa), nhưng ở đó không có nghĩa là Vật Chất Uẩn (Rūpakkhandha).

Nhưng đối với câu hỏi 'Có phải tất cả Vật Chất Uẩn (Rūpakkhandha) được gọi là vật chất không? Câu trả lời là 'phải', bởi vật chất uẩn là thuật ngữ rất rộng và gồm cả những thuật ngữ như Piya rūpa, eva rūpa, etc.

VII. PAṬṬHĀNA PĀḶI

Patthāna là cuốn thứ bảy và cuốn cuối của Thắng Pháp, được gọi là Mahā Pakārana, ' Đại Bổn' tuyên bố địa vị chiếm giữ tối cao và đỉnh cao tuyệt vờiđạt được trong việc điều tra truy cứu của và bản chất tuyệt đối của tất cả các pháp trong Vũ Trụ.

Dhammasanganī liệt kê tất cả các pháp nầy và tuyên bố chúng dưới những nhóm Tam Mẫu Đề và Nhị Mẫu Đề. Vibhanga phân tích chúng để chỉ những pháp chứa trong những phạm trù chính của Khandha, āyatana, dhātu, v.v... Dhātukathā nghiên cứu mối tương quan của các pháp được liệt kê trong Mātikā với mỗi bộ phận cấu thành của những phạm trù chính nầy của Khandha, āyatana và dhātu. Song Đối (Yamaka) quyết định tính mơ hồ, lưỡng nghĩa của mối quan hệ trong và ngoài (nội ngoại) của mỗi pháp. Patthāna hình thành cuốn cuói Thắng Pháp đêm lại tất cả những mối quan hệ như thế trong hình thức cùng hợp tác để chỉ rằng tất cả các pháp không tồn tại như những tại biệt nhưng chúng tạo thành một hệ thống có sắp xếp tốt trong đó đơn vị nhỏ nhất duyên những đơn vị còn lại của nó và cũng duyên trở lại. Việc sắp xếp hệ thống nầy là quá ư rắc rối, phức tạp, sâu sắc, thâm thuý và không thể thăm dò được.

ĐỀ CƯƠNG PAṬṬHĀNA - HỆ THỐNG CÁC MỐI QUAN HỆ

Patthāna, là chữ kép của từ 'pa' và 'thāna' nghĩa là hệ thống các mối quan hệ. Luận thuyết vĩ của Patthāna sắp xếp tất cả các pháp hữu vi. (22 Tam Mẫu Đề và 100 Nhị Mẫu Đề của Matika), dưới 24 loại quan hệ, mô tả và phân loại chúng thành một hệ thống vận hành của các pháp trong vũ trụ. Cả thế được chia thành bốn phần lớn, đó là:

(i) Anuloma Paṭṭhāna: nghiên cứu trường hợp các duyên (paccaya) tồn tại giữa các pháp.

(ii) Paccaniya Paṭṭhāna: nghiên cứu những trường hợp trong đó các quan hệ không tồn tại giữa các pháp.

(iii) Anuloma Paccaniya Paṭṭhāna: nghiên cứu trường hợp trong đó vài mối liên hệ (paccaya) trong đó chúng không tồn tại giữa các pháp, nhưng các trường hợp khác tồn tại.

(iv) Paccaniya Anuloma Paṭṭhāna: nghiên cứu những trường hợp trong đó vài mối quan hệ không tại giữa các pháp, nhưng những trường hợp khác có tồn tại.

Hai mươi bốn mối quan hệ (paccaya) được áp dụng vào bốn phần lớn nầy trong sáu cách sau đây:

(i) Tika Paṭṭhāna: Hai mươi bốn paccaya được áp dụng vào các pháp trong hai mươi bốn nhóm Tam Mẫu Đề của chúng.

(ii) Duka Paṭṭhāna: Hai mươi bốn paccaya được áp dụng vào các pháp trong 100 Nhị Mẫu Đề với hai mươi hai nhóm Tam Mẫu Đề.

(iii) Duka-Tika Paṭṭhāna

(iv) Tika-Duka Paṭṭhāna

Hai mươi bốn paccaya được áp dụng vào các pháp trong hai mươi hai nhóm Tam Mẫu Đề của chúng có 100 nhóm Nhị Mẫu Đề.

(v) Tika-Tika: Hai mươi bốn paccaya được áp dụng vào các pháp trong hai mươi hai nhóm Tam Mẫu Đề với nhau.

(vi) Duka-Duka Paṭṭhāna: Hai mươi hai paccaya được áp dụng với các pháp trong các nhóm Nhị Mẫu Đề của chúng với nhau.

Bốn Paṭṭhāna của bốn phần lớn khi hoán vị với sáu paṭṭhāna của sáu cách kết quả trong hai mươi bốn tiểu luận tạo thành một bản sưu tập khổng lồ Thắng Pháp trừu tượng được biết là Mahāpakarana hay như chú giải gọi nó là "Ānantanaya Samanta Paṭṭhāna' để chỉ sự phong phú và độ sâu không thể dò của nó.

Kết Thúc

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29908)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27191)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21782)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22248)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23622)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20437)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20060)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21954)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24776)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19015)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24789)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31005)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24010)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27784)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26548)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21362)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23244)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38166)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18811)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20001)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19060)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23189)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23903)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22834)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22942)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29603)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20653)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18729)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15856)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18872)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19701)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20174)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19967)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18141)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22980)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34201)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16441)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16941)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39283)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26113)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20123)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18868)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24089)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29164)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22916)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30982)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21028)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26874)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20692)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26276)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23349)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24699)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30054)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20242)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20424)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15163)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15846)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23923)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant