Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Vi: Tăng Già Hay Đoàn Thể Tỷ Kheo

01 Tháng Chín 201000:00(Xem: 7448)
Chương Vi: Tăng Già Hay Đoàn Thể Tỷ Kheo

SO SÁNH KINH TRUNG A HÀM CHỮ HÁN &
KINH TRUNG BỘ CHỮ PALI
HT. Thích Minh Châu (1961)
Thích Nữ Trí Hải dịch Việt (1998)
Nguyên tác: Bhiksu Thich Minh Chau (1961),
"A Comparative Study of the Chinese Madhyama Agama
and the Pali Majjhima Nikaya", Ph.D. Thesis, Bihar University, India

Phần Hai - Những điểm đồng và dị giữa bản Hán tạng và bản Pàli

CHƯƠNG VI. TĂNG GIÀ HAY ĐOÀN THỂ TỲ-KHEO

 

Bây giờ chúng ta sẽ nghiên cứu về những điểm đồng dị giữa hai bản kinh khi nói về Tăng già. Trước hết ta đề cập giới Biệt giải thoát quy định đời sống của mỗi Tỳ-kheo và của toàn thể tăng chúng; kế đến là sinh hoạt hằng ngày của chư tăng, cách thức để dàn xếp tranh chấp, an cư mùa mưa và cuối cùngtọa cụ.

1. GIỚI BẢN PÀTIMOKKHA (Biệt giải thoát)

Mặc dù giới Biệt giải thoát được nói đến trong cả hai bản kinh C và P, nó không đề cập rõ ràng cả 250 giới của Luật bản Hoa ngữ hay 227 giới của Luật bản Pàli. Nhưng trong NC 46, có nói đến một số quy luật về cách hành xử của một Tỳ-kheo ở rừng, có thể xem như một cái nhân cho toàn thể giới Biệt giải thoát thành hình về sau.

Bản Hoa ngữ kể ra 13 giới điều, trong khi bản P có đến 17. Một vài giới điều giống nhau, một vài giới điều hơi khác, và một số giới, bản này có, bản kia không. Những giới điều tương đương như sau:

C1=P1; C2=P5; C3=P6; C5=P8; C6=P9; C7=P11; C8=P12 và P14; C9=P3; C10=P2; C11=P15; C12=P16; C13=P17. C4 không có trong bản P. P4, P7, P10, P13 không có trong bản C.

C1: C26: Một Tỳ-kheo sống nơi vô sự (nhàn tịnh) cần phảithái độ cung kính và biết tùy thuận. Nếu vị ấy không có thái độ cung kính và không biết tùy thuận, thì những Tỳ-kheo khác sẽ quở trách vị ấy và nói rằng, Tỳ-kheo ở nơi vô sự này nào có ích lợi gì khi sống ở nơi vô sự. Bởi thế một Tỳ-kheo sống nơi vô sự cần phải cung kính và biết tùy thuận.

P1: P69: Gần giống. C: nơi vô sự=P: arannà, A lan nhã hay ở rừng. P thêm: khi vị ấy đến giữa tăng chúng; bỏ: biết tùy thuận; thêm: sappatissena, lễ độ. Những Tỳ-kheo khác sẽ quở trách vị ấy: Nào có ích gì vị Tỳ-kheo ở rừng này chỉ sống ở rừng cho thỏa thích, nhưng không kính trọng, không lễ độ với các đồng phạm hạnh.

C2: Vị ấy nên học hạnh không cười đùa, không tháo động.

P5: Không được giao động (anuddhatena), tâm không ổn định (acapalena).

C3: Không vướng vào chuyện trò nhảm nhí (Nghĩa đen: không nói những chuyện thú vật).

P6: Không được nói nhiều, không được nói tục.

C4: Không được kiêu căng ngã mạn, phải ít nói.

P: Không có.

C5: Vị ấy phải học tập kiểm soát các giác quan.

P8: Vị ấy cần tập kiểm soát các căn môn.

C6: Vị ấy cần tập ăn uốngđiều độ.

P9: Cũng vậy.

C7: Vị ấy phải tinh cần tinh tấn, không được lười biếng.

P11: Vị ấy phải tinh cần.

C8: Phải có chánh niệm, chánh trí tuệ.

P12 và 14: Vị ấy phải an lập trong chánh niệmtrí tuệ.

C9: Vị ấy phải biết thời nghi, không vào làng quá sớm để khất thực và không ra khỏi làng quá muộn.

P3: Không vào làng quá sớm, không ra khỏi làng khi chiều tối.

Nhận xét:M.L.S ii, trang 142 dịch: trong ngày, để dịch divà. Ở đây đúng hơn là atidivà, quá muộn trong ngày.

C10: Vị ấy nên biết cách ngồi, thiện xảo trong việc sử dụng chỗ ngồi.

P2: Thiện xảo trong việc dùng chỗ ngồi.

C11: Vị ấy nên bàn về Luật và A-tỳ-đàm.

P15: Vị ấy nên học Luật, Thắng pháp.

C12: Vị ấy nên học thảo luận về tịnh chỉ, về các thiền pháp tịch tịnh giải thoát thuộc vô sắc, vượt quá sắc pháp.

P16: Vị ấy nên tu tập các tịch tịnh giải thoát thuộc vô sắc, siêu quá sắc pháp.

C13: Vị ấy nên học thảo luận về sự đoạn trừ lậu hoặcchứng đắc tri kiến.

P17: Vị ấy nên tu tập các pháp thượng nhân.

P4: Vị ấy không nên đi đến các gia đình trước và sau bữa ăn.

C : Không có.

P7: Vị ấy phải là người có ái ngữ, một người bạn tốt.

C: Không có.

P10: Vị ấy cần phải tỉnh giác .

C: Không có.

P13: Vị ấy cần phải có định.

C: Không có.

2. ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY CỦA CÁC TỲ-KHEO

Trong NC25, có thuật đời sống hàng ngày của các Tỳ-kheo sống chung, chứng tỏ làm thế nào các Tỳ-kheo nên sống chung để có được sự hòa hợp và hài hòa trong tăng chúng.

C185: Lúc bấy giờ, ở rừng Sừng bò có ba thiện gia nam tử sống chung, là Tôn giả A Na Luật Đà, Nan Đề, Kim Tỳ La. Các thượng tọa này sống chung như sau: Họ đi khất thực, ai về trước sửa soạn chỗ ngồi, múc nước, đặt nước rửa chân, bày ghế đẩu để rửa chân, đặt khăn để lau chân cùng với một bình nước uống và một chậu nước rửa. Nếu vị ấy có thể ăn hết tất cả những đồ ăn khất thực thì ăn, nếu còn dư, thì đặt trong một đồ chứa và đậy lại. Sau khi ăn xong, vị ấy đặt bát lại chỗ cũ, rửa tay chân, lấy tọa cụ đặt lên vai đi vào nhà ngồi thiền. Vị Tỳ-kheo đi khất thực về trễ, nếu ăn hết thức ăn khất thực thì ăn. Nếu không đủ, vị ấy có thể lấy thức ăn còn lại và ăn cho thỏa thích. Nếu có đồ thừa, vị ấy ném trên đất sạch hay trong nước không có trùng. Rồi vị ấy rửa sạch bát của Tỳ-kheo kia, lau khô và dẹp sang một bên, cuốn chiếu để ngồi, dẹp ghế đẩu để ngồi rửa chân, khăn lông để lau chân, dụng cụ để rửa chân, bình nước uống và chậu nước rửa. Vị ấy quét chỗ ăn, dọn sạch tất cả rác rưởi, đặt y bát vào chỗ cũ, rửa tay chân, lấy tọa cụ đặt lên vai đi vào nhà thiền. Vào buổi chiều, vị thượng tọa nào xuất thiền trước, nếu thấy bình nước uống, chậu nước rửa đã hết nước thì đi múc cho đầy. Nếu Tỳ-kheo có thể làm việc ấy một mình, vị ấy làm việc ấy rồi dọn dẹp. Nếu không thể làm một mình, vị ấy vẫy tay cho một Tỳ-kheo khác, rồi cả hai cùng mang những vật dụng ấy và dọn dẹp, không nói, không hỏi. Những vị thượng tọa này cứ mỗi năm ngày lại hội họp để bàn về pháp hay giữ im lặng của bậc thánh.

P31: Bản P rất đơn giản và bỏ nhiều chi tiết. Tỳ-kheo nào về trước chỉ sửa soạn chỗ ngồi, đặt nước uống nước rửa và bát đựng đồ thừa. Vị Tỳ-kheo nào về sau, nếu muốn, có thể ăn thực phẩm còn thừa ấy. Nếu không muốn, vị ấy có thể bỏ nó tại một nơi không có cỏ xanh, hay bỏ trong nước không có trùng. Rồi vị ấy dẹp chỗ ngồi, nước uống, nước rửa, bát đựng đồ thừa và quét sạch phòng ăn. Trong khi bản C nói các thượng tọa ngồi thiền, bản P chỉ nói rằng vị Tỳ-kheo nào thấy bình nước uống, bình nước rửa..... đã trống rỗng thì đổ đầy. Bản P cũng nói ba thượng tọa gặp nhau mỗi năm ngày, nhưng không nói giữ im lặng bậc thánh. Ba vị Tỳ-kheo ở đây là A Na Luật, Nan ĐềKim Tỳ La.

3. BẢY CÁCH DÀN XẾP TRANH CHẤP (Thất diệt tránh pháp)

Trong NC66, bảy pháp diệt tránh được đề cập:

Cách thứ 1:

C: Bằng cách hiện diện =P: Sammukhàvinayo (Hiện tiền tỳ ni)

C196: Có bảy cách dàn xếp tranh chấp là : bằng hiện diện(ưng dữ diện tiền chỉ tránh luật), bằng sự nhớ lại (ưng dữ ức chỉ tránh luật), bằng không cuồng si (ưng dữ bất si chỉ tránh luật), bằng tự thú nhận (ưng dữ tự phát lộ chỉ tránh luật), bằng hình phạt cho ngươi (ưng dữ quân chỉ tránh luật), bằng tuần tự (ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật), như quét phân (ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tránh luật). Thế nào là luật dàn xếp tranh chấp bằng cách hiện diện? Hoặc một người (quở trách) đối với một người (phạm) mà khuyến giáo, khiển trách, để hộ trì pháp luật, thuận theo giáo huấn của bậc đạo sư, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Một người đối với hai người (phạm), một người đối với nhiều người (phạm), một người đối với tăng chúng (phạm) mà khuyến giáo, khiển trách, để hộ trì pháp luật, thuận theo giáo huấn của bậc đạo sư, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Hai người (quở trách) đối với hai người (phạm), mà khuyến giáo, khiển trách, để hộ trì pháp luật, thuận theo giáo huấn của bậc đạo sư, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Hai người đối với nhiều người, hai người đối với tăng chúng, hai người đối với một người mà khuyến giáo, khiển trách, để hộ trì pháp luật, thuận theo giáo huấn của bậc đạo sư, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Nhiều người (quở trách) đối với nhiều người (phạm), mà khuyến giáo, khiển trách, để hộ trì pháp luật, thuận theo giáo huấn của bậc đạo sư, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Nhiều người đối với tăng chúng, nhiều người đối với một người, nhiều người đối với hai người mà khuyến giáo, khiển trách, để hộ trì pháp luật, thuận theo giáo huấn của bậc đạo sư, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Tăng chúng đối với tăng chúng mà khuyến giáo, khiển trách, để hộ trì pháp luật, thuận theo giáo huấn của bậc đạo sư, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Tăng chúng đối với một người, Tăng chúng đối với hai người, Tăng chúng đối với nhiều người, mà khuyến giáo, khiển trách, để hộ trì pháp luật, thuận theo giáo huấn của bậc đạo sư, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ.

 P104: Không giống hẳn. Bảy cách ở trong bản P là: 1)Sammukhà- vinayo dàtabbo, 2) Sativinayo dàtabbo, 3) Amùlhavinayo dàtabbo, 4)Patinnàya kàretabbam, 5)Yebhuyyassikà, 6)Tassapàpiyyasikà, 7)Tinavatthàrako. Ở đây sự giải thích bản cáo trạng phải đưa ra hiện tiền không giống nhau. Bản P giải thích rằng khi có sự tranh chấp về pháp và phi pháp, luật và phi luật, thì tất cả chư tăng phải hội họp toàn chúng, và những gì đúng pháp cần phải được thảo luận và chấp hành. Khi ấy cuộc tranh chấp cần được dàn xếp tùy theo đó.

Cách thứ 2:

Ức niệm tỳ ni, cáo trạng bằng cách nhớ lại=P: Sativinayo dàtabbo

C: Nếu có một người phạm giới nhưng không nhớ, khi ấy các Tỳ-kheo nên bảo vị ấy rằng, vị ấy đã phạm tội mà không nhớ. Vị ấy nên đến giữa đại chúng xin luật ức niệm. Và đại chúng nên chấp thuận yêu cầu ấy. Nếu có một tăng chúng sống hòa hợp, thì Tỳ-kheo nên đắp thượng y chừa một bên vai, bỏ dép, đảnh lễ một vị thượng tọa, quỳ thẳng chắp tay mà nói: "Bạch chư Tôn giả, con đã phạm một lỗi lầm nhưng không nhớ. Nay con xin đại chúng cho con luật ức niệm." Đại chúng nên đồng thanh cho Tỳ-kheo ấy luật ức niệm, phù hợp với pháp luật, giáo lý của đấng đạo sư, với sự hiện diện của Tỳ-kheo ấy, làm cho ông hoan hỷ.

P: Mặc dù nội dung giống nhau, giải thích hoàn toàn khác. Ở đây các Tỳ-kheo quở trách một vị đã phạm một tội nặng hay một tội hơi nặng. Nhưng Tỳ-kheo ấy trả lời rằng: "Tôi không nhớ đã phạm một tội như thế." Khi ấy đại chúng nên cho Tỳ-kheo ấy ức niệm tỳ ni.

Cách thứ 3:

Bất si tỳ ni=P: Amùlhavinayo dàtabbo

C: Có một người phát cuồng. Vì điên, vị ấy nói mình đã phạm nhiều giới tội bất tịnh, không xứng Sa-môn, không phù hợp với pháp và luật. Về sau vị ấy trở lại bình thường. Các Tỳ-kheo khác kể cho vị ấy nghe những gì đã xảy ra và khuyên vị ấy nên xin đại chúng ban cho luật bất si. Khi ấy đại chúng nên cho vị ấy luật bất si. Phần còn lại cũng như ức niệm tỳ ni.

P: Ở đây giải thích hơi khác. Các Tỳ-kheo quở trách một vị đã phạm một tội ba la di hay gần như ba la di. Nhưng Tỳ-kheo ấy trả lời rằng ông không nhớ đã phạm một tội như thế. Khi bị các Tỳ-kheo khác gạn hỏi nhiều lần, vị ấy trả lời ông đã phát cuồng, mất quân bình tâm trí, và trong thời gian ấy đã làm và nói nhiều điều không xứng hạnh Sa-môn, nhưng ông không nhớ gì hết. Với một Tỳ-kheo như vậy, đại chúng nên cho vị ấy luật bất si.

Cách thứ 4:

Tự phát lồ chỉ tránh luật=P: Patinnaya karetabbam

C: Khi một Tỳ-kheo phạm giới, dù có người bảo hay không ai bảo, có người nhắc hay không ai nhắc, nếu có một tăng chúng hòa hợp, Tỳ-kheo ấy nên đắp thượng y bày một bên vai, bỏ dép đến giữa chúng, cúi đầu dưới chân một vị trưởng lão Tỳ-kheo, quỳ thẳng chắp tay nói: "Thưa các trưởng lão, con đã phạm một tội lỗi, với lòng thành con xin bày tỏ trước trưởng lão. Con xin phát lộ không dám che dấu. Từ nay con sẽ tự chế ngự mình, không còn tái phạm." Khi ấy tăng chúng nên hỏi đương sự : "Chư hiền có thấy rõ tội lỗi không?" Tỳ-kheo ấy nên trả lời: "Thật sự con đã thấy rõ lỗi lầm." Khi ấy tăng chúng nên bảo đương sự: "Chư hiền khéo tự chế, chớ để tái phạm."

P: Cũng vậy, với những dị biệt sau đây:

C: được bảo hay không được bảo, có người nhắc hay không người nhắc=P: dù một Tỳ-kheo có quở trách hay không quở trách, nhớ và phát lộ một lỗi lầm. Bản P bỏ: nếu có một tăng chúng sống hòa hợp, bỏ dép đi vào trong tăng chúng ấy. C: quỳ gối= P: ngồi xếp gối. P bỏ: "Xin đại đức lắng nghe, nay ở trước đại đức, với lòng thành, con xin phát lộ không dám che giấu. Con sẽ tự chế và sẽ không tái phạm lỗi lầm." Trong khi bản C nói tăng chúng hãy bảo đương sự làm, bản P chỉ nói thượng tọa Tỳ-kheo nên nói như vậy.

Cách thứ 5:

C: Hình phạt cho người phạm tội = P: Tassapàpiyyasikà

C: Nếu có một người không biết tàm quý, không hối hận những tội bị thấy, bị nghe và bị nghi là có ác dục. Sau khi phạm một lỗi lầm, vị ấy nói mình thấy tại một nơi, nghe tại một nơi; sau khi nói mình biết tại một nơi, vị ấy nói mình thấy tại một nơi; sau khi nói mình thấy tại một nơi, lại nói mình biết tại một nơi. Giữa đại chúng, vị ấy nói mình biết tại một nơi. Giữa đại chúng, vị ấy nói mình thấy tại một nơi. Giữa đại chúng, vị ấy nói mình thấy tại một nơi rồi lại nói mình biết tại một nơi, nói mình biết tại một nơi rồi lại nói mình thấy tại một nơi. Với Tỳ-kheo ấy, đại chúng nên nhóm họp thi hành luật hình phạt cho đương sự. Nên bảo: "Ngươi không có đạo đức, không hiểu biết. Ngươi ác, bất thiện, vì đã phạm giới rồi lại nói tôi biết tại một nơi, thấy tại một nơi... (như trên)."

P: Không giống, ở đây các Tỳ-kheo quở trách một Tỳ-kheo đã phạm tội ba la di hay gần như ba la di. Nhưng Tỳ-kheo ấy trả lời rằng mình không nhớ đã rơi vào một tội lỗi như thế. Khi các Tỳ-kheo khác thúc bách phải nhớ lại, vị ấy đáp rằng mình chỉ nhớ phạm một lỗi nhẹ này nọ chứ không phạm tội nặng. Khi bị thúc ép thêm nữa, vị ấy trả lời rằng trước đây mặc dù không ai bảo, vị ấy đã thú nhận có phạm một lỗi nhẹ, vậy thì sao bây giờ khi được hỏi lại không nhận mình đã phạm một tội ba la di hay gần như ba la di. Khi bị bức bách thêm, vị ấy mới thú nhận rằng đã phạm tội ba la di hay gần như ba la di. Những gì vị ấy đã nói trước đấy chỉ là nói đùa. Đây là sự trừng phạt cho người phạm giới.

Cách thứ 6 để giàn xếp tranh chấp:

C: Triển chuyển chỉ tránh luật=P: Yebhuyyassikà, quyết định của đa số (đa nhân mích tội)

C: Một số tranh chấp khởi lên giữa hai Tỳ-kheo : "Đây là pháp, đây không phải pháp; đây là luật, đây không phải là luật; đây là phạm tội, đây không phải phạm tội; tội này nhẹ, tội này nặng; điều này cần được nói lên, điều này không cần được nói lên; điều này đáng chế ngự, điều này không đáng chế ngự; điều này có dư tàn, điều này không có dư tàn; điều này đáng phát lộ, điều này không nên phát lộ". Khi ấy những tranh chấp này cần được dàn xếp ngay tại chỗ. Nếu cuộc tranh cãi được giải quyết ngay tại chỗ, thì khi ấy cuộc tranh chấp được gọi là đã giải quyết. Nếu không thì cuộc tranh chấp ấy nên đưa ra giữa tăng. Nếu nó được dàn xếp giữa các thành viên của tăng đoàn, thì cuộc tranh chấp được xem như đã giải quyết. Nếu không, thì khi gần đấy có những Tỳ-kheo thông kinh, luật luận, vị Tỳ-kheo này nên đi đến đấy thuật lại cuộc tranh chấp, nếu giữa đường cuộc tranh chấp được giải quyết, như vậy được xem là đã xong. Nếu không, cuộc tranh chấp nên được đưa ra giữa tăng. Nếu nó được giải quyết giữa tăng, thì cuộc tranh chấp được xem là đã được dàn xếp. Nếu không, và khi có nhiều bằng hữu và ngoại hộ thông kinh, luật, luận, những Tỳ-kheo nên đi đến đấy thuật lại cuộc tranh chấp để nhờ họ giải quyết. Những Tỳ-kheo này nên dàn xếp cuộc tranh chấp phù hợp với pháp, với luật, với lời Phật dạy và làm cho họ hoan hỷ ngay.

P: Ở đây cách này được đặt vào hàng thứ hai tiếp theo cách đầu là hiện tiền tỳ ni, nghĩa là khi cách đầu không giải quyết được tranh chấp tại chỗ, thì các Tỳ-kheo nên đi đến một nơi khác ở đấy có nhiều Tỳ-kheo hơn, và tại đấy các Tỳ-kheo nên họp toàn chúng và đưa tất cả vấn đề ra để giải quyết tranh chấp theo phán quyết của đa số.

Cách thứ 7:

C: Như khí phấn tảo chỉ tránh luật (như quyét phân)=P: Tinavatthàrako, như thảo phú địa (trải cỏ che lấp)

C: Một tăng đoàn sống thường gây gổ tranh chấp, tăng chúng chia thành hai phe nhóm. Trong một nhóm, vị thượng tọa lớn nhất hay vị kế tiếp nên bảo với Tỳ-kheo trong nhóm như sau: "Thưa chư hiền, xin nghe. Chúng ta sống không có đạo đức, không hiểu biết, chúng ta thật là bất thiện. Bởi vì trong pháp và luật rất tốt đẹp này, chúng talòng tin đã xuất gia học đạo, nhưng lại sống tranh chấp, gây gổ nhau. Do sự tranh chấp gây gổ này, chúng ta đã phạm nhiều lỗi lầm, trừ những tội thâu lan giá và trừ những lỗi liên hệ đến cư sĩ. Vì an lạc cho tôi và cả cho chư hiền, nay tôi tha thiết sám hối trước chư hiền, xin phát lộ không dám che giấu. Tôi sẽ tự chế và không phạm những lỗi lầm ấy nữa." Nếu trong nhóm này không có Tỳ-kheo nào thích hợp, thì chính vị Tỳ-kheo ấy nên đi qua nhóm Tỳ-kheo bên kia, cúi đầu dưới chân một vị Tỳ-kheo trưởng thượng, quỳ gối chắp tay nói như sau: "...( như trên)." Khi ấy vị Tỳ-kheo kia nên nói : "Thượng tọa nên tự chế và đừng tái phạm." Rồi nhóm thứ hai cũng làm như vậy.

P: Không giống hẳn, mặc dù ý nghĩa không khác. Ở đây giản dị hơn. Nó nói rằng một Tỳ-kheo thiện xảo của một bên nên đứng dậy đắp y chừa một vai, chắp tay thưa đại chúng như sau: "Thưa chư hiền, xin lắng nghe. Chúng ta sống tranh chấp cãi cọ, đã làm đã nói nhiều điều không xứng hạnh Sa-môn. Nếu tăng nghĩ là phải, tôi xin sám hối bất cứ lỗi lầm nào do tôi cũng như chư hiền đã phạm, để cho tôi và chư hiền cùng được an lạc, trải cỏ phủ lấp chúng. Ngoại trừ những tội nặng và những lỗi lầm liên hệ đến cư sĩ." Một Tỳ-kheo có kinh nghiệm ở phe bên kia cũng làm như thế.

4. AN CƯ HÀNG NĂM

Những Tỳ-kheo theo luật phải an cư mỗi năm ba tháng. Nhưng bản C nói đến an cư mùa hạ còn bản P nói đến an cư mùa mưa.

Trong NC20, an cư được đề cập như sau:

C9: Một thời đức Phật du hànhVương Xá, trú tại tu viện Trúc Lâm, và trải qua mùa hạ an cư tại đấy cùng với một chúng đông Tỳ-kheo. Tôn giả Mãn Từ Tử đang trải qua hạ an cư của ngài tại quê nhà. Lúc ấy, những Tỳ-kheo tại địa phương sau khi trải qua ba tháng hạ an cư, sau khi may y, mang y đi về thành Vương Xá, đến nơi ở lại trong tu viện Trúc Lâm.

P24: Bản P đề cập ngay đức Phật trú tại Vương Xá trong rừng Trúc, chỗ nuôi dưỡng những con sóc. Khi ấy nhiều Tỳ-kheo tại trú xứ sau khi đã qua ba tháng an cư mùa mưa, đi đến đức Phật, đảnh lễ Ngài và ngồi qua một phía.

Lại nữa trong NC43, có nói đến an cư hàng năm của các Tỳ-kheo như sau:

C194: Phật đang an cư mùa hạ cùng với một chúng đông Tỳ-kheo, Ngài khuyên họ nên giữ tập tục ăn ngày một lần như chính Ngài đã thực hành và tự thấy mình ly dục, không còn khao khát, ít bệnh, thân thể nhẹ nhàng, có sức khỏe, an ổnhạnh phúc... Trong ba tháng hạ an cư, Tôn giả Bạt Đà Hòa Lợi không thể yết kiến đức Phật. Cuối mùa an cư, Tôn giả đi đến Phật và phát lộ lỗi lầm.

P65: Cũng vậy, nhưng ở đây nói đến an cư mùa mưa chứ không phải mùa hạ.

Sự khác nhau về luật an cư hàng năm đã được nêu lên trong đoạn nói về những đặc điểm của Nhất thiết hữu bộThượng tọa bộ.

5. NI SƯ ĐÀN HAY TỌA CỤ

Một dị biệt khác nữa mà chúng ta thấy trong cả hai bản dịch chứng tỏ truyền thống khác nhau của mỗi bộ phái, đó là sự tuân giữ tọa cụ được nói trong bản C nhưng phần lớn bị các bản P bỏ qua.

Như trong NC20, về tọa cụ được nói như sau:

C9: Tôn giả Mãn Từ Tử khi đêm đã tàn, và buổi sáng đắp y, cầm y bát vào thành Xá Vệ khất thực. Sau bữa ăn ngọ, sau khi dẹp y bát, rửa tay chân, ngài đặt tọa cụ lên vai đi đến nơi kinh hành trong rừng Anda. Tôn giả Xá-lợi-tử cũng thế, sau khi đêm đã tàn, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát vào thành Xá Vệ khất thực. Sau bữa ăn ngọ, sau khi dẹp y bát, rửa tay chân, ngài đặt tọa cụ lên vai đi đến nơi kinh hành trong rừng Anda. Vào lúc ấy Tôn giả Mãn Từ Tử đi đến rừng Anda, trải tọa cụ dưới gốc cây, ngồi kiết già. Tôn giả Xá-lợi-tử cũng đi đến rừng Anda, trải tọa cụ ngồi kiết già không xa nơi Tôn giả Mãn Từ Tử ngồi.

P24: Không giống hẳn. Bản P bỏ tất cả đoạn nói về hai Tôn giả đi khất thực vào rừng Anda trải tọa cụ. Nó chỉ nói rằng, Tôn giả Mãn Từ Tử hoan hỷ với pháp thoại của Phật, đảnh lễ Ngài, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi vào rừng Anda để nghỉ ban ngày. Khi ấy một Tỳ-kheo thuật lại cho Tôn giả Xá Lợi Phất và ngài vội vàng cầm tọa cụ đi theo Tôn giả Mãn Từ Tử.

Nhận xét: Đây là đoạn văn độc nhất trong bản P nói đến ni sư đàn hay tọa cụ.

Điểm khác nhau này về sự tuân giữ ni sư đàn hay tọa cụ đã được đề cập trong chương nói về Một vài đặc điểm của Nhất thiết hữu bộThượng tọa bộ.

Nhận xét chung:

Trong chương này, ta thấy có nhiều dị biệt giữa hai bản C và P, chứng tỏ hai bản tiêu biểu những truyền thống khác nhau. Do vậy một vài học giới về lối hành xử của một người ở rừng, bảy cách dàn xếp tranh chấp không hoàn toàn giống nhau trong hai bản kinh.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29905)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27184)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21776)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22241)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23621)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20433)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20058)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21951)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24762)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19005)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24782)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30992)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24003)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27774)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26544)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21343)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23237)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38159)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18809)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19997)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19058)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23184)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23895)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22826)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22936)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29599)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20650)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18719)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15853)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18868)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19696)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20171)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19963)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18131)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22965)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34193)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16432)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16932)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39274)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26094)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20113)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18865)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24077)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29157)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22910)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30975)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21021)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26871)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20680)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26272)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23348)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19833)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24696)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30053)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20242)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20419)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15158)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15845)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23920)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant