Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Viii: Các Ẩn Dụ Hay Ngụ Ngôn

01 Tháng Chín 201000:00(Xem: 7854)
Chương Viii: Các Ẩn Dụ Hay Ngụ Ngôn

SO SÁNH KINH TRUNG A HÀM CHỮ HÁN &
KINH TRUNG BỘ CHỮ PALI
HT. Thích Minh Châu (1961)
Thích Nữ Trí Hải dịch Việt (1998)
Nguyên tác: Bhiksu Thich Minh Chau (1961),
"A Comparative Study of the Chinese Madhyama Agama
and the Pali Majjhima Nikaya", Ph.D. Thesis, Bihar University, India

Phần Hai - Những điểm đồng và dị giữa bản Hán tạng và bản Pàli

CHƯƠNG VIII: CÁC ẨN DỤ HAY NGỤ NGÔN

 

Kinh Phật đầy dẫy những ví dụ, nên trong cả hai bản C và P, ta thấy có một sưu tập dồi dào các ngụ ngôn và ẩn dụ. Một nghiên cứu tỷ giảo về những ẩn dụ này trong hai bản cho thấy những nét đặc sắc sau: 1. Một số ẩn dụ gần giống nhau trong hai bản; 2. Một số ẩn dụ có cùng nội dung nhưng cách trình bày khác nhau; 3. Trong vài trường hợp, bản P có ẩn dụ đơn giản hơn; 4. Trong vài trường hợp, trái lại, ẩn dụ trong C đơn giản hơn; 5. Một số ẩn dụ có trong C lại không có trong P; 6. Trong vài trường hợp, ẩn dụ trong C không có; 7. Có những trường hợp, ẩn dụ trong P chính xác hơn, sáng sủa hơn bản C; 8. Một số ẩn dụ hoàn toàn khác nhau trong hai bản.

1. Những ẩn dụ gần giống nhau:

Trong vài trường hợp, hầu như không có gì khác nhau giữa hai ẩn dụ về phương diện nội dung cũng như hình thức.

Như trong NC4, Tôn giả Đại Mục-liền-liên kể một ví dụ để nói Tôn giả Xá-lợi-tử khéo biết tâm của người nghe để giảng pháp cho họ thấm vào tim:

C87: "Tôi đến nhà của một khổ hạnh lõa thể tên là Man Tử, xưa là người làm xe. Vào lúc ấy, cạnh nhà ông ta, có một người làm xe đang cưa gỗ để làm trục xe. Lúc ấy lõa thể Man Tử xưa làm nghề đẽo vành xe, đi đến nhà ấy và trông thấy người làm xe đang bận đẽo trục xe. Một tư tưởng khởi lên trong ông ta: 'Nếu người ấy dùng cưa cưa bớt những chỗ khuyết kia, thì trục xe sẽ toàn hảo'. Khi ấy, đúng như những gì lõa thể Man Tử đã nghĩ, người làm xe lấy một cái cưa cưa đứt những chỗ khuyết. Rồi lõa thể Man Tử hết sức vui mừng và nói: 'Ôi, thợ làm xe, anh biết đúng tim tôi; vì anh đã cưa đúng những chỗ khuyết để thành hình trục xe như tôi đã nghĩ.' "

P5: Gần giống. C: một lõa thể ngoại đạo tên Man Tử xưa là người làm xe=P: purànayànakàraputto Panduputto àjìviko. C: có một người làm xe đang đẽo gỗ để làm trục xe=P: vào lúc ấy Samìti một người thợ xe, đang đẽo vành của một bánh xe. C: nếu người làm xe kia lấy cái cưa cưa bớt những chỗ khuyết kia=P: mong người ấy đẽo đường cong, đường méo, chỗ khuyết này. C: vậy là tâm anh biết được tâm tôi=P: dường như là anh ta đang đẽo xe với cái tâm biết được tâm tôi.

Trong NC13, đức Phật trích dẫn một ví dụ về con gà mái để hiển thị rằng, bất cứ người nào có được 15 đức tính thì chắc chắn phải đạt toàn giác.:

C206: "Cũng như một con gà mái đẻ 10 trứng, 12 trứng, rồi đúng thời ấp chúng, đúng thời ủ chúng, canh chừng chúng một cách đàng hoàng. Có thể con gà mái không chú ý, nhưng trong những cái trứng kia, những con gà con với mỏ, móng, sẽ mổ cho thủng vỏ trứng để an toàn chui ra."

P16: Tương tự. C: 10 trứng hay 12 trứng=P: 8 trứng 10 trứng hay 12 trứng. C: đúng thời ấp chúng, đúng thời ủ chúng, đúng thời coi chừng chúng= P: đúng thời ấp ngồi trên chúng, đúng thời ủ chúng, chân chính chăm sóc chúng. C: con gà mái có thể không chú ý=P: mặc dù con gà mái không lập ước nguyện rằng mong gà con sẽ mổ vỏ mà chui ra sau khi đập bể vỏ trứng với móng và mỏ.

2. Nội dung giống nhưng hình thức khác:

Trong phần lớn các ẩn dụ, chúng ta nhận thấy mục đíchẩn dụ chuyên chở để làm sáng tỏ một giáo lý nào đó là giống nhau trong cả hai bản, nhưng cách trình bày ẩn dụ không hoàn toàn giống nhau. Đa số ẩn dụ rơi vào trường hợp này và điều này chứng tỏ những nhà biên tập hoàn toàn tự do chọn lựa danh từ và cách diễn đạt.

Như trong NC16, đức Phật trích dẫn ví dụ đàn nai để hiển thị lợi lạcgiáo lý Phật đem lại cho con người nói chung.

C102: "Giả sử có một nơi an ổn, nơi có dòng nước lớn. Ở đấy có một bầy nai đang sống và đi tung tăng. Nếu có một người đến, không tìm lợi lạc cho bầy nai, không tìm sự an ổnhạnh phúc cho chúng. Người ấy ngăn con đường chính, mở ra một con đường nguy hiểm, đào một cái hố và cho một người canh chừng cái hố. Như vậy toàn thể bầy nai sẽ đi đến hoại diệthoàn toàn tử vong. Lại có một người đến muốn sự an lạc cho bầy nai ấy, tìm sự an ổn hạnh phúc cho bầy nai, nên vị ấy mở ra con đường chính, làm cho nó bằng phẳng, chặn con đường nguy hiểm và đuổi người đứng canh. Nhờ vậy đàn nai sống an ổn."

P19: Ẩn dụ trong P có vài dị biệt chi tiết. Nơi được nói đến là một mảnh đất sình sâu và thấp ở trong rừng bên cạnh có một đàn nai đang sống. Con đường an toàn được mô tảkhemo savatthiko pìtigamanìyo, con đường lừa bịp là kumaggo. Ở đây không nói gì đến đào hố và đặt mồi canh, mà nói một con mồi đực, một con mồi cái được đặt đấy để dụ đàn nai.

C: "Này các Tỳ-kheo, nên biết rằng ta nói ví dụ ấy để hiển thị một vài ý nghĩa. Người có trí nghe ví dụ sẽ hiểu nghĩa. Ví dụ này nói lên ý nghĩa như sau: Dòng nước lớn tượng trưng cho năm dục hấp dẫn, khả ái. Gì là năm? Các sắc đẹp do mắt nhận thức, âm thanh do tai nhận thức, mùi do mũi, vị do lưỡi, xúc do thân nhận thức. Các ngươi nên biết dòng nước lớn dụ cho năm dục này. Đàn nai dụ cho các Sa-môn, Bà-la-môn. Người đi đến không muốn lợi ích cho đàn nai dụ cho ma vương, kẻ xấu. Đóng con đường chính, mở con đường phụ, dụ cho ba tư tưởng bất thiệntư tưởng về tham dục, tư tưởng về sân hậntư tưởng về tác hại. Con đường nguy hiểm dụ cho ba tư tưởng bất thiện. Lại nữa con đường nguy hiểm dụ cho tám tà đạo, từ tà kiến cho đến tà định là thứ tám. Đào một hố lớn dụ cho vô minh, đặt người đứng canh dụ cho quyến thuộc của ma. Lại nữa có một người đến muốn lợi lạc cho bầy nai ấy, tìm an ổnhạnh phúc cho bầy nai ấy là dụ cho đức Như lai, bậc A-la-hán chánh đẳng giác. Đóng con đường nguy hiểm, mở con đường chính an toàn dụ cho ba thiện tư duytư duy ly dục, vô sânbất hại. Con đường dụ cho ba thiện tư duy và tám chánh đạo, từ chánh kiến đến chánh định là thứ tám."

P: Mảnh đất sình sâu là đồng nghĩa với tham dục; đàn nai lớn tiêu biểu chúng sinh; người muốn hại chúng tiêu biểu ma vương, kẻ xấu ác. Con đường hiểm nguy là đồng nghĩa với tám tà đạo. Con mồi đực tiêu biểu sự ham vui (nandìràga). Con mồi cái dụ vô minh. Người muốn tốt cho bầy nai là đồng nghĩa với Như lai, đấng toàn thiện. Con đường bảo đảm an toàn tiêu biểu đường bát chánh.

Trong NC19, Phật dùng ẩn dụ chiếc bè để hiển thị rằng pháp của Ngài dạy phải được từ bỏ sau khi sử dụng, chứ không phải để mà đeo mang, ôm giữ:

C200:=P22:

"Ta, vì các ngươi (không có trong P), đã nói về ẩn dụ chiếc bè, trong một thời gian dài (không có trong P), cần phải được từ bỏ chứ không để ôm giữ. Như có một dòng nước từ trên núi xuống, rất sâu và rất rộng, chảy nhanh và có rất nhiều vật trôi nổi trên đó. Trên dòng này, không có thuyền cũng không có cầu. Giả sử có một người đến muốn vượt qua bờ bên kia tìm một vài công việc. (Bản P nói, một người trên đường dài, trông thấy một dãi nước lớn, bờ bên này đầy nguy hiểm và hãi hùng. Bờ bên kia thì an toàn không đáng sợ, không có thuyền để vượt qua, không có cầu bắt từ bờ này sang bờ kia). Vì muốn qua sông, người ấy nghĩ: 'Dòng nước này thật sâu và rộng; chảy nhanh và có nhiều vật trôi nổi trên đó. Trên dòng nước này không có thuyền hay cầu có thể vượt qua. Ta có việc muốn ở trên bờ kia, muốn qua sông. Ta phải dùng đến phương tiện gì, cách gì để vượt qua bờ kia một cách an toàn?' (P: Cũng những dị biệt như đã ghi trong đoạn trước; và không có câu hỏi sau cùng). Rồi vị ấy nghĩ, 'Nay ở bờ này ta nên thu nhặt cỏ, cây bó lại để làm thành một chiếc bè, rồi cỡi bè ấy mà vượt qua sông.' Rồi người ấy thu nhặt trên bờ này những cỏ và gỗ, bó chúng thành một chiếc bè, cỡi chiếc bè này và qua bờ kia an toàn. (P: thêm cọng, cành, lá, nhưng bỏ gỗ; lại thêm: nhờ chiếc bè này, nỗ lực chống chèo với tay và chân.) Rồi người ấy nghĩ: 'Chiếc bè này rất ích lợi cho ta, vì nhờ nó ta đã từ bờ kia sang bờ này một cách an toàn. Ta sẽ vác nó lên vai phải hoặc đội trên đầu mà đi.' Rồi người ấy mang chiếc bè trên vai phải hoặc đội lên đầu mà đi. Các thầy nghĩ sao? Làm như vậy người ấy có được lợi ích (của chiếc bè) không? Các Tỳ-kheo trả lời: 'Không.' (P: Gần giống, với những dị biệt như đã nói; bản P chỉ nói vai mà không nói vai phải). Đức Thế Tôn hỏi: 'Người ấy nên làm gì về chiếc bè để có được sự ích lợi (của nó)? Người ấy nên nghĩ: 'Chiếc bè này rất ích lợi cho ta. Nhờ cỡi nó, ta đã vượt bờ kia sang bờ này. Nay ta nên nhận chìm chiếc bè này xuống nước, hoặc đặt nó trên bờ mà đi.' Rồi người ấy nhận chìm chiếc bè dưới nước, hoặc đặt trên bờ mà đi. Các thầy nghĩ sao? Làm như vậy về chiếc bè, người ấy có được lợi ích (của chiếc bè) không? Khi ấy các Tỳ-kheo đáp: 'Thưa vâng, có ích lợi.' (P: Gần giống, dị biệt như đã ghi. Ở đây P chỉ nói đưa chiếc bè lên bờ hay nhận chìm nó trong nước). Đức Thế Tôn nói: 'Như vậy trong một thời gian dài ta đã giảng cho các thầy ẩn dụ về chiếc bè là để từ bỏ chứ không phải để ôm giữ. Nếu các thầy đã hiểu ẩn dụ về chiếc bè mà từ lâu nay ta đã dạy, thì pháp các ông còn phải từ bỏ, huống là phi pháp.' "

Trong NC32, Phật lấy ví dụ cái hột của một cây leo tăng trưởngtrở thành nguy hiểm cho một cây lớn, để hiển thị mối nguy của dục:

C174:=P45:

Như vào tháng cuối xuân, vào những ngày hết sức nóng (P: vào tháng cuối mùa hạ), một hột của cây leo chih-i (?) nẻ ra rơi xuống đất dưới chân một cây sàla. (P: hạt của một cây leo nứt ra rơi xuống dưới chân một cây sàla). Khi ấy vị thần cây vì việc này đâm ra sợ hãi (bản P thêm: vị thần ở trong cây sàla sợ hãi, dao động, run rẩy. Nó bỏ: do việc này). Rồi các vị thần làng, những vị thần ở những cây lân cận, ở hàng trăm loại cây lúa, cây thuốc (?)vốn là quyến thuộc bằng hữu của thần cây này, thấy được sự đáng sợ và mối nguy của cái hột ấy trong tương lai, đi đến nơi thần cây này mà an ủi rằng: (Bản P bỏ: các vị thần làng, những vị thần ở những cây lân cận, ở hàng trăm loại cây lúa, cây thuốc nhưng nói: các thần rừng, thần rú, thần cây, thần ở trong các cây có thuốc và rừng rú. Nó bỏ: thấy được sự đáng sợ và mối nguy của cái hột ấy trong tương lai) "Hỡi thần cây, đừng sợ! Hỡi thần cây, đừng sợ! Cái hột này có thể bị con nai ăn, có thể bị chim công ăn, hoặc bị gió thổi, hoặc bị đám cháy trong làng đốt tiêu, hoặc bị một ngọn lửa hoang thiêu đốt, hoặc bị thối không còn là hạt giống." (P bỏ: Hỡi vị thần cây, ... hay bị gió thổi, hoặc bị đám cháy trong làng đốt. Nó thêm: hoặc có thể nó bị những người thợ rừng nhặt lên, hoặc có thể nó bị kiến trắng ăn. C: hoặc nó có thể bị thối không còn là hạt giống=P: hoặc nó có thể trở thành phi hạt giống). Bạn sẽ được an ổn (P: không có câu này). Nhưng hạt giống ấy không bị nai ăn, không bị chim công ăn, không bị gió thổi, không bị đám cháy đốt, không bị ngọn lửa hoang đốt cháy, không bị thối để không còn là hạt giống. Hạt giống ấy không thiếu điều gì, nó không bị đâm thủng, không bị cắt ngang, không bị hư hỏng vì gió, mưa và nắng. Nó gặp được mưa lớn và trổ mầm rất nhanh. (P bỏ: hạt giống này không thiếu gì.... gió mưa và nắng).Thần cây này nghĩ: "Vì lý do nào những thần cây trong làng, những thần cây lân cận... (như trên, cho đến không bị hỏng vì gió, mưa và nắng)." Nó trở thành cọng, cành, lá, mềm mại, khả ái để sờ. (P trước hết nói hạt giống lớn thành một cây leo mềm mại, dịu dàng, có lông và bám lấy cây sàla. Khi ấy vị thần cây nghĩ tại sao các thần cây bạn lại kéo đến an ủi mình trong khi chính mình thấy sự xúc chạm với dây leo này rất dễ chịu). Những cọng, cành, lá mềm mại khi chạm đến đem lại những cảm giác êm dịu. Cây leo phụ thuộc vào cây lớn này, trở thành những cọng lớn, có mắc và có lá chằng chịt bao quanh cây lớn, làm thành một mái che trùm lên nó. Khi cây leo đã phủ lên trên ngọn cây lớn, vị thần cây nghĩ: "Những thần cây trong làng... nó gặp được mưa lớnvà nẩy mầm rất nhanh. Vì hạt giống này, do hạt giống này, ta cảm thọ đau đớn khốc liệt, sự thống khổ cực kỳ gắt gao." (P: Cây leo bao trùm lấy cây sàla, làm thành một cái lọng ở trên nó, nảy sanh thêm vô số cây nhỏ, và mỗi cành lớn của cây sàla đều bị phá hủy. Khi ấy vị thần cây nghĩ rằng, bạn bè quyến thuộc của ông đã đúng khi báo cho ông biết về mối nguy của hột giống này).

3. Ẩn dụ trong bản P đơn giản hơn:

Có nhiều trường hợp những ẩn dụ trong P đơn giản hơn trong C, như các trường hợp sau:

Trong NC4:

C87: "Như một thiếu nữ dòng Sát đế lợi, dòng Bà-la-môn, thiếu nữ của gia chủ, thợ thuyền, một thiếu nữ đoan chính, xinh đẹp, sau khi tắm rửa tẩy tịnh, thân mình xông hương phấn, mặc y phục sạch sẽ trong trắng. Nàng mang nhiều đồ nữ trang để tăng thêm sắc đẹp. Nếu có một người nghĩ đến cô gái ấy, mong cho cô được lợi ích, an lạc, bảo đảmhạnh phúc. Người ấy lấy một vòng hoa sen xanh, hoa chiêm bặc, hoa tu ma na (hoa lài), hay hoa bà sư, hoa a đề mâu ca (đào hoa tâm) và tặng nàng tràng hoa ấy. Cô gái kia vui mừng nhận tràng hoa với cả hai tay, để đội lên đầu mà trang sức."

P5: Ẩn dụ ở đây đơn giản hơn. Nó nói trường hợp một phụ nữ hay một nam nhi, một thanh niên thích trang sức sau khi đã gội đầu. Nếu người ấy có được một tràng hoa sen hay hoa lài, hay hoa atimuttaka (đào hoa tâm), thì người con trai hay con gái ấy sẽ cầm tràng hoa với cả hai tay mà đặt lên đầu.

Trong NC18:

C193: "Như một rừng sàla trên một thửa đất tốt, người thợ rừng thông minh, thiện xảo, không lười biếng, tùy theo mùa mà nuôi dưỡng gốc các cây sàla. Người ấy thường xuyên xới đất, bón phân, và tưới nước cho chúng. Nếu nó quá cao, anh ta đào xuống cho sâu, nếu nó quá thấp, anh ta thêm đất. Nếu có cỏ hoang mọc gần cây, anh ta nhổ đi. Nếu những cây mọc chung mà cong quẹo, đầy gút mắc và không thẳng, anh ta nhổ quăng ra ngoài. Nếu có vài cành cong quẹo, anh ta cưa bớt. Nếu gần những cây ấy, có những cây sàla mới, mạnh mẽ, thẳng tắp, anh ta sẽ nuôi dưỡng chúng tùy theo mùa, thường xuyên xới đất thêm phân và tưới nước. Như vậy, rừng sàla trên mảnh đất tốt sẽ tăng trưởng xanh tốt và dồi dào."

P21: Không giống hẳn. Nó nói một rừng sàla lớn ở phụ cận một ngôi làng của một thị trấn. Rừng sàla này bị những cây leo ăn bám, xâm chiếm. Một số người vì muốn tốt cho khu rừng này, muốn nó được an ổn, nên chặt những cành bị cây leo ăn, kéo ra khỏi rừng. Nhưng những người ấy sẽ săn sóc cẩn thận những cành cây thẳng và lành mạnh. Nhờ vậy rừng sàla sẽ tăng trưởng xanh tốt dồi dào.

4. Ẩn dụ ở bản C đơn giản hơn:

Trong vài trường hợp chúng ta thấy ẩn dụ trong C giản dị hơn. Như trong NC18:

C193: "Như một chiếc xe ngựa với người đánh xe ngồi trên. Ông ta cầm cương với bàn tay trái, bàn tay phải nắm một cây roi da. Người ấy điều khiển chiếc xe theo tám con đường chính và đạt đến bất cứ nơi nào mình muốn."

P21: Nó nói đến một chiếc xe thắng với những con ngựa giống tốt, đứng trên ngã tư đường, trên đất bằng phẳng, và một người đánh xe lão luyện sẵn sàng con roi. Một người đánh xe chuyên luyện ngựa, leo lên xe ấy, cầm cương trong bàn tay trái, và con roi trong bàn tay phải, người ấy có thể điều khiển chiếc xe đi xuôi đi ngược, đến bất cứ hướng nào tùy thích.

5. Những ẩn dụ không có trong bản P:

Đôi khi có một vài ví dụ có trong C nhưng thiếu trong P. Như trong NC90

Trong C171: "Có bốn hạng người, một số không có dị thục báo mà như có, một số người có báo mà như không, một số không có báo và cũng có vẻ không có báo, một số có báo và cũng có vẻ là có báo. Cũng như có bốn hạng quả mít, một hạng không chín nhưng bề ngoài như đã chín, một số ngoài sống trong chín, một số ngoài sống trong sống, một số ngoài chín trong chín."

P136: Bản P nói đến nghiệp nhưng không nói đến người. Có những nghiệp vô hành và cũng có vẻ vô hành; có nghiệp vô hành nhưng có vẻ như có hành; có những nghiệp có hành và cũng mang vẻ có hành; có nghiệp có hành nhưng có vẻ như vô hành. Ẩn dụ ở đây không có.

6. Những ẩn dụ không có trong bản C:

Đôi khi trường hợp xảy ra ngược lại, là bản C không có ẩn dụ, mà bản P tương đương thì có. Như trong NC8:

C98: Ở đây C nói đến giai đoạn trong việc quán thân khi vị Tỳ-kheo rõ biết hơi thở vào và thở ra. Nó bỏ ví dụ.

P10: Ở đây bản P thêm ví dụ một người thợ quay, rõ biết khi quay dài hay khi quay ngắn.

Trong NC74, P119 tiếp tục nói thêm rằng thân hành niệm lại được tu tập với tâm muốn đạt đến nhờ thắng trí, một thiền chứng này hay khác, thì vị ấy có thể đạt đến điều này và thân chứng bất cứ cảnh giới nào. Rồi bản P đưa ra ba ví dụ để làm rõ lời giải thích của Phật:

a) Như một bình nước đầy tràn đến nỗi một con quạ có thể uống được, và bình này được đặt trên một cái giá; nếu một người mạnh khỏe đi đến lay chiếc bình, có thể làm vãi nước ra ngoài.

b) Như một cái đê trên một mảnh đất bằng, bốn bờ được vây quanh bằng bờ đê. Con đê này đầy nước đến miệng, khiến một con quạ có thể uống nước. Nếu một người mạnh đi đến, có thể làm tràn nước ra.

c) Như tại ngã tư đường, trên một mảnh đất bằng, có một cỗ xe được thắng những con ngựa giống tốt. Một người đánh xe thiện xảo leo lên xe, tay trái cầm cương, tay phải cầm roi, có thể lái cỗ xe đi bất cứ nơi nào tùy thích.

7. Ẩn dụ trong bản P đúng hơn:

Trong vài trường hợp, chúng ta thấy ẩn dụ bản P chính xácminh bạch hơn bản C. Điều này là do sự dịch sai của bản C hoặc do giải thích sai nguyên bản tiếng Phạn. Như trong NC17, muốn chứng minh phương pháp thứ nhất xoay tâm nghĩ đến một đặc tính này thành ra một đặc tính khác, để trừ khử những tư tưởng bất thiện, đức Phật đã dùng đến ẩn dụ như sau, trong đó ta thấy cách giải thích của bản P chính xác hơn:

C101: "Như một người thợ mộc hay người học nghề thợ mộc, dùng một dây mực để kẽ một đường trên gỗ, rồi người ấy dùng một cái cưa bén để cưa đứt gỗ làm cho nó thẳng."

P20: Không giống, bản P cũng nói đến người thợ mộc hay người học nghề thợ mộc nhưng thêm chữ dakkho. Ở đây nó nói rằng người thợ mộc hay người học nghề thợ mộc dùng một cái nêm để đánh bật một cái nêm khác.

Cũng thế trong ẩn dụ của NC43, về sự huấn luyện một con ngựa:

C194: Phật hỏi Bạt Đà Hòa Lợi có nhớ ngày xưa Ngài đã kể ví dụ về con ngựa thuần chủng. Bạt Đà Hòa Lợi trả lời, vì ông không tuân giữ giới ăn một bữa, trong khi những Tỳ-kheo khác tuân giữ, nên ông không nhớ. Phật dạy không phải chỉ vì lý do ấy mà thôi. Khi Ngài kể ẩn dụ về con thuần chủng mã, Bạt Đà Hòa Lợi đã không nhất tâm, không kính cẩn, không chú ý lắng nghe. Đây là một lý do nữa. Rồi theo yêu cầu của Bạt Đà Hòa Lợi, Phật kể lại ẩn dụ ấy. Có một người luyện ngựa, có được một con ngựa thuần chủng. Lúc đầu anh ta huấn luyện con ngựa về tiếng hý. Trong khi huấn luyện, con ngựa có thể không ưa được huấn luyện, nó có thể muốn hoặc không muốn, vì con ngựa ấy chưa quen được huấn luyện. Sau khi đã xong giai đoạn huấn luyện đầu tiên, người ấy luyện con ngựa về dây cương để làm cho nó chạy. Ở đây bản C hơi lộn xộn về các giai đoạn huấn luyện con ngựa trở thành hoàn toàn thuần thục, xứng đáng cái tên là ngựa của vua.

P65: Bản P rất rõ ràng về các giai đoạn của sự huấn luyện. Trước hết, con ngựa được luyện mang dây cương, và trong khi được huấn luyện, nó có thể dằng co vì chưa quen. Khi nó đã tập quen với dây cương, con ngựa lại được luyện để quen với yên, để đi thẳng, đi vòng tròn, đi bằng đầu gót, tập phi, tập hý, tập một trò chơi đơn giản, tập lộn nhào, tập phi nước đại, tập phi ở tốc lực tối thượng và có những cung cách lịch sự nhất. Rồi người luyện ngựa cho con ngựa đeo đồ trang sức đẹp đẽ. Khi con ngựa được đầy đủ mười đức tính này, nó trở thành xứng đáng được vua sử dụng.

8. Cả hai bản đều có ẩn dụ không giống nhau:

Chúng ta cũng nhận thấy rằng một đôi khi hai bản có ẩn dụ không giống nhau, như trong NC 19, 23, 39.

Như trong NC19, ẩn dụ sau được đức Phật dùng khi Ngài khuyến khích các đệ tử hãy bất động trước khen chê:

C200: "Như trong rừng Kỳ Viên này, bên ngoài cổng có nhiều lá khô, củi khô. Giả sử có người đến đem chúng đi để đốt và sử dụng tùy thích. Các thầy nghĩ sao, những lá khô, củi khô kia có nghĩ rằng, người kia đem chúng ta đi, đốt chúng ta trong lửa và sử dụng chúng ta tùy thích. Các Tỳ-kheo đáp: Bạch Thế Tôn, không. Cũng thế, nếu có người mạ lÿ các ông, đánh đập các ông, giận dữ, bất mãn với các ông, luôn luôn khiển trách các ông; và nếu có những người khác kính trọng, cúng dường, tôn trọng đảnh lễ các ông, các ông cũng không nên ôm lòng giận dữ, thù ghét, ác ý, không ưa, tác hại; các ông cũng không nên vui mừng hoan hỷ, các ông cũng đừng để cho tâm mình như lên mây."

P22: Không giống. Ở đây đức Phật khuyên các Tỳ-kheo hãy dẹp sang một bên những gì không thuộc về của mình, vì như vậy sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Tỳ-kheo. Những gì không thuộc của Tỳ-kheo ở đây là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Tất cả những thứ này không phải là tự ngã, không thuộc về tự ngã, bởi thế các Tỳ-kheo nên dẹp. Rồi Phật cũng lấy ví dụ ấy để làm sáng tỏ giáo lý của Ngài. Bản P bỏ khôcủi, nhưng thêm cỏ, cọng cành. Trong khi ở bản C, Phật hỏi các Tỳ-kheo những lá khô, củi khô này có nghĩ người này đã mang chúng đi, ở bản P, Phật hỏi các Tỳ-kheo có nghĩ rằng người kia đã mang chúng đi hay không.

Trong NC39, một loạt những ẩn dụ có những dị biệt giữa hai bản được thấy như sau. Ở đây Ưu Ba Ly kể ra bốn ví dụ để chứng minh ông ta sẽ lôi kéo Sa-môn Cồ Đàm như thế nào trong cuộc tranh luận.

C133: "Như một người mạnh nắm lấy một con cừu đực bằng cái bờm dài của nó và kéo lôi tùy thích."

P56: C: kéo lôi tùy thích = P: àkaddheyya parikaddheyya samparikaddheyya (kéo tới giật lui quay vòng tròn). Phần còn lại giống nhau.

C: "Như một người mạnh cầm một tấm áo lông cừu, đập nó để giũ bụi."

P: Không giống: "Như một người bán rượu (sondikàkammakàro) nhận chìm một vò đựng rượu (? sondikàkilanjam) trong một hồ sâu, nắm lấy một góc mà kéo nó."

C: "Như một người bán rượu nhận một bao đựng rượu vào nước sâu và kéo nó tùy thích."

P: Không giống: "Như một người say rượu đi chếch choáng (sondikàdhuto), nắm lấy một cái vàlam nơi góc và lắc nó, tung nó lên nhiều lần."

C: "Như một con voi chúa 60 tuổi, một con voi lớn có ngà, chân và thân đã trưởng thành, đầy đủ sức mạnh, được một người mạnh dẫn đi tắm, rửa mông, lưng, bụng, ngà, đầu của nó và làm cho nó giỡn chơi trong nước."

P: Nó nói đến một con voi Kunjaro 60 tuổi nhảy xuống ao nước sâu và chơi trò chơi tung nước.

Cũng vậy trong NC39, Kiền Tử khiển trách Ưu Ba Ly đã đến Sa-môn Cồ Đàm cốt để luận bại ông ta nhưng cuối cùng chính mình đã bị đánh bại, và Kiền Tử dùng hai ví dụ để khiển trách Ưu Ba Ly:

C: "Như một con người đi vào rừng để được mắt, nhưng rốt cuộc trở về mất cả 2 con mắt; như một người đến hồ uống nước để giải khát nhưng trở về vẫn còn khát."

P: Ví dụ thứ nhất không giống. Nó nói đến một người đi thiến súc vật nhưng khi trở về lại bị thiến. Ví dụ thứ hai giống như ví dụ đầu trong bản C.

Nhận xét: Như vậy một nghiên cứu tỷ giảo về các ví dụ trong hai bản kinh chứng tỏ cả hai bản đều rút tài liệu từ một nguồn chung, như ta thấy những dữ kiện mà hai bản sưu tập giống nhau. Nhưng mặc dù những ẩn dụ này chuyên chở những thuyết minh giống nhau, cách trình bày những ẩn dụ ấy, sự chọn lựa những chi tiết, có vài dị biệt đáng kể, và điều này chứng tỏ các nhà biên tập đã có sự rộng rãi trong việc chọn lựa tài liệu. Nếu trong vài ví dụ có một số điểm bất đồng, ấy là do sự giải thích sai ví dụ, hoặc do lỗi phiên dịch. Nhìn chung, khảo sát các ẩn dụ trong hai bản kinh giúp ta thấy rõ các điểm đồng và dị giữa hai bản.

 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29908)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27193)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21786)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22254)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23630)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20454)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20066)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21958)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24776)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19016)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24792)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31011)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24010)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27785)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26552)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21364)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23246)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38175)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18816)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18440)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20004)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19061)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23195)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23904)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22835)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22944)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29607)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20654)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18732)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15857)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18876)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19705)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20175)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19967)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18141)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22983)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34202)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16442)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16942)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39294)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26117)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20125)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18877)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24094)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29164)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22921)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30985)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21036)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26880)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20695)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26278)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23352)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24700)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30055)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20243)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20430)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15163)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15847)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23924)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant