Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 8

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10838)
Phần 8


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 8)


Pháp Sư Tịnh Không

Nguyện thứ hai, “Xưng tán Như Lai”

Câu này rất quan trọng đặc biệtxã hội ngày nay. Xã hộian định hay xã hội động loạn đương nhiên phụ thuộc nhiều nhân tố, nhưng có một nhân tố quan trọng nhất, Phật pháp gọi là duyên. Một trong số các duyên chínhtán thán, cũng chính là ngôn ngữ lời nói của chúng ta. Phật Bồ tát hy vọng chúng taxã hội này phải ẩn ác dương thiện. Kinh văn phía sau, Phật dạy “Khéo giữ khẩu nghiệp không nói lỗi người”. Người ta có điểm tốt, chúng ta phải tán thán, biểu dương, xã hội này liền có thể từ trong hỗn loạn chuyển thành an định. Toàn thế giới ngày nay đều loạn, căn nguyên đó do người thế gian tán thán ác mà che giấu cái thiện. Thiện thì không nói đến, ác thì lại tận lực tuyên dương, tô vẽ khiến lòng người bất an.

Lời nói của chúng ta phải vì xã hội gánh trách nhiệm, phải vì nhân dân cả thế gian gánh trách nhiệm, không thể tuỳ tiện mà nói. Xã hội ngày nay, có thể nói luân lý đạo đức không có người giảng. Nếu trên miệng ai nói đến luân lý đạo đức thì bị mọi người đều mắng là lạc hậu, lỗi thời, không hợp trào lưu, không hợp thời đại, khó nghe hơn là bị cho rằng “tư tưởng phong kiến”. Thế cái gì là hợp thời? Bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa là hợp thời?

Cho nên xã hội ngày nay, bao gồm giáo dục ở trường học, học sinh tiểu học nhận giáo dục đã bị tiêm nhiễm công lợi, chỉ có lợi hại, không có đạo nghĩa, cho nên thế giới này làm sao không gặp nạn. Băng của Nam Bắc Cực làm sao không tan ra? Chúng ta học Phật luôn được xem là người sáng suốt, học Phật là người giác ngộ, chúng ta phải toàn tâm toàn ý giúp đỡ xã hội này, thay đổi thói xấu, phong tục tập khí không tốt, làm thế nào chuyển đổi chúng lại. Phương pháp tốt nhất là hoàn toàn dựa vào chính chúng ta, không thể đổ trách nhiệm cho người khác. Chính ta phải làm được. Người thế gian bất trung, ta phải tâm trung tâm; người thế gian bất nghĩa, ta phải nghĩa khí; người thế gian bất hiếu, ta phải tận hiếu. Giáo huấn của đại thánh nhân thế xuất thế gian, ta phải y theo toàn bộ, nhất định tin tưởng mình có thể làm được. Người người đều có tín tâm kiên định, ý nguyện kiên định, nỗ lực làm theo, như phía trước đã nói: “Tín huệ, Nguyện Huệ, Hương Tượng Bồ Tát”, thì thế giới này có thể cứu vãn, kiếp vận có thể vãn hồi, tai nạn có thể hóa giải.

Do đây có thể biết, chính ngay ở mỗi vị đồng tu chúng ta phải phát đại tâm. Kinh Hoa Nghiêm nói “Đại tâm phàm phu”, chúng taphàm phu phát đại tâm, công đức, uy đức vượt qua Thanh Văn Duyên Giác Quyền Giáo Bồ Tát. Thanh VănA La Hán, Duyên GiácBích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ tát nếu lấy Thiên Thai, Biệt Giáo để nói chính là Bồ tát từ thập hồi hướng trở xuống gọi là Tam Hiền Bồ tát. Cái gì gọi là phát đại tâm phàm phu? Người vừa phát tâm, đem giáo huấn trong kinh Vô Lượng Thọ đã dạy thảy đều làm được. Công đức người đó lập tức liền vượt qua bậc Tam thừa, liền được siêu việt. Kinh Hoa Nghiệm Phật nói “đại tâm phàm phu” nhằm khích lệ chúng ta. Nếu Ngài nói A La Hán mới có thể làm được thì chúng ta sẽ cảm thấy không có phần, nhất định không làm được, tâm này không thể phát. Hoặc nói Bồ tát mới có thể làm, cự ly phàm phu chúng ta quá xa với Bồ tát, cho nên Phật nói phàm phu. Chúng taphàm phu, đại tâm chúng ta phát ra liền có thể siêu việt ba thừa. Lời của Phật nói là thật, không phải giả, chỉ sợ chính chúng ta không chịu phát tâm, còn nếu phát tâm liền siêu việt, gọi là “buông bỏ đồ đao lập địa thành Phật”.

Phát tâm rất quan trọng, không chỉ siêu việt ba thừahiện tại còn có lợi ích. Tầm nhìn của người thế gian rất cạn, chỉ mong cầu cái lợi trước mắt, nếu khônglợi ích, dù bảo người đó làm Phật, họ cũng không làm. Phát tâm được lợi ích gì? Đời sống vật chất không hề thiếu kém, đây là lợi íchhiện tiền người phát tâm có được. Việc này Phật giảng rất có đạo lý. Không phải sẽ có rất nhiều, nếu nói rất nhiều thì hành giả liền sẽ tăng lòng tham. Chỉ nói “Không thiếu hụt”, mỗi ngày có được cái ăn, có quần áo mặc, có nơi để ở. Chỉ cần chúng ta không thiếu hụt, không cần phải có nhiều, vì có nhiều sẽ tăng lòng tham. Đó là lợi ích trước mắt.

Lợi ích thứ hai, thân thể khoẻ mạnh, trẻ mãi không già. Người ở tuổi hai mươi phát đại tâm, làm đại tâm phàm phu sẽ mãi mãi hai mươi tuổi. Dù sống đến bảy tám mươi tuổi, khuôn mặt người đó vẫn tuổi hai mươi. Thân thể khoẻ mạnh, vĩnh viễn không bệnh. Đó là lợi ích hiện tiền, lợi ích chân thật. Làm quan lớn, phát tài to mà thường hay bệnh tật thì đó là việc rất đáng tiếc. Tiền tài cũng dùng hết vào phí thuốc thang. Cho nên đại tâm phàm phu vĩnh viễn trẻ trung, vĩnh viễn khoẻ mạnh, dung mạo sáng lạng, pháp hỉ tràn đầy, an vui tự tại.

Phật pháp rất hiện thực, hiện thực hơn bất cứ thứ gì. Nếu trái với kinh giáo, không luận tu hành thế nào, người sáng mắt vừa nhìn là biết ngay, vì sao? Vì trên mặt không có ánh sáng, người không cần có công năng đặc dị cũng nhìn thấy. Nếu có công năng đặc dị vừa nhìn sẽ thấy rõ ràng hơn. Chúng ta thường nói: “thần khí không tốt”, có thể thấy được khí sắc của họ tối đen, không phải khí sắc sáng lạng. Tỉ mỉ quan sát tiếp, dung mạo không tốt thì dù hoá trang thế nào cũng không cách gì giấu được. Ngay thế gian xem tướng đoán mạng cũng thường nói “tướng tuỳ tâm chuyển”. Cái đại tâm vừa phát ra là Phật tâm, tướng của Phật đẹp dường nào. Cái tướng này của chúng ta cũng dần dần chuyển thành tướng Phật, đức tướng viên mãn, không có chút kém khuyết.

Tâm chúng ta thường giữ mặt thiện của tất cả chúng sanh, miệng chúng ta thường hay tán thán mặt thiện của chúng sanh, chúng ta liền tâm thiện, làm thiện, lời nói thiện, tướng mạo liền thiện, thân thể thiện, không có thứ nào bất thiện. Còn nếu thường giữ tâm ác, chuyên gây phiền phức cho người, chuyên nhìn khuyết điểm của người, tâm của chúng ta ác, làm ác, nói ác, cuối cùng tướng mạo chính chúng ta cũng biến thành ác, thân thể ác, làm sao có thể tránh khỏi họa. Người học Phật ngay đạo lý này cũng không hiểu, vậy còn học cái gì.

Vận mệnh của mình hoàn toàn do chính mình nắm lấy. Ngày trước tôi đã giảng rất nhiều lần, rất tỉ mỉ Liễu Phàm Tứ Huấn. Tiên sinh Liễu Phàm là người thành thật, chịu nhận sai, mạnh dạn thay đổi. Ông đã thành công trong việc chuyển biến vận mạng của mình. Sau khi chuyển được vận mạng, ông giúp đỡ rất nhiều chúng sanh chuyển biến vận mạng. Đó là Bồ tát hiện thân. Thời đại này, chư Phật Như Lai hết lời khuyên bảo chúng ta phải phát đại tâm.

Cái gì là đại tâm? Ngay đây tôi có thể nói cụ thể, nhất định phải phát tâm đem những lời giáo huấn trong kinh Vô Lượng Thọ thảy đều làm được, đều thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày, trong công việc của chúng ta, và trong đối nhân xử thế. Đó là phàm phu phát đại tâm. Làm theo như vậy, tương lai nhất định vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, thượng thượng phẩm vãng sanh. Làm đến 90% thì thượng trung phẩm vãng sanh. Không nên rơi xuống dưới bậc thượng, thượng hạ phẩm cũng phải làm đến được 80%. Chúng ta phải đặt tiêu chuẩn, nhất quyết tranh thủ thượng phẩm vãng sanh mới chân thật đại tâm phàm phu. Đại tâm này không phải Bồ tát mà là Phật, “chỉ có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba”. Phàm phu phát đại tâm chính là pháp nhất thừa, chúng ta nhất định phải làm được.

Phải xưng tánNhư Lai”, không dùng “chư Phật”, hai cú từ này khác nhau. Trên kinh Phật, việc chuyển đổi danh từ cũng có dụng ý đặc biệt của nó. Trong “Kinh Kim Cang giảng nghĩa” của cư sĩ Giang Vị Nông, ông chú giải rất tường tận. Kinh Kim Cang, có lúc thì nói “chư Phật”, có lúc thì nói “Như Lai”. Cư sĩ Giang giải thích, phàm hễ nói “chư Phật” là từ trên tướng mà nói, từ nơi sự mà nói. Phàm hễ gọi “Như Lai” đều là từ trên tánh mà nói.

Kinh này không ngoại lệ. Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm cũng như vậy, cho nên chúng ta phải thông hiểu. “Lễ kính chư Phật” là từ nơi sự tướng mà nói. Trên sự tướng, tất cả cung kính. Còn nói “Xưng tán Như Lai” là từ nơi tánh đức mà nói. Tương ưng với tánh đức, chính là thiện, chúng ta phải xưng tán. Ac, chúng ta không nói cũng tốt nhưng không thể xưng tán mà phải xưng tán cái thiện. Đối với “lễ kính”, chúng ta lễ kính người thiện cũng phải lễ kính người ác. Không thể chỉ tôn kính người thiện, còn với người ác thì không. Như vậy là sai. Chúng ta tôn kính người ác nhưng không tán thán họ. Khác biệt chính ở chỗ này. Tâm cung kính đó không được khác biệt, nhất định phải bình đẳng.

Việc xưng tán nhất định tương ưng với tánh đức, khen cái thiện của người. Tất cả chúng sanh trên thế gian, không ai chưa từng làm việc tốt, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm, thiện ác lẫn lộn. Vì chúng sanh thời nay, nghiệp chướng tập khí sâu nặng, ác nhiều lành ít. Nếu có thể chuyển biến lại, làm thiện nhiều ác ít thì toàn phong khí của xã hội đó sẽ được chuyển biến. Chúng ta tán dương thiện, không nói ác, những người làm ác đó theo thời gian dần dần sẽ giác ngộ. Người ác cũng có lương tâm, lâu dần họ sẽ phản tỉnh, sanh tâm hổ thẹn: “Ta tạo nhiều việc ác, mọi người đều không nói, đều có thể bao dung. Ta làm chút việc thiện nhỏ như vậy mà mọi người đều tán thán”. Từ đó họ sẽ liền hồi tâm chuyển ý, ít làm ác, làm thiện nhiều.

Nếu không tán thán cái thiện của người khác, ác nhỏ của họ thì chúng ta làm ầm lên, như vậy sẽ sanh ra hậu quả ngược lại. Người đó sanh tâm hối hận vì đã làm việc tốt, vì làm tốt không ai biết đến, không ai khen ngợi, còn làm chút việc ác liền được thiên hạ biết đến. Người muốn làm thiện nhìn thấy cũng sẽ dần bỏ luôn ý niệm thiện. Trên thế giới, người ta đều làm ác dẫn đến quan niệm sai lầm cho rằng làm ác mới hợp thời. Quan niệm đó dẫn dắt người trên thế gian bỏ đi ý niệm thiện, tăng trưởng ác niệm, liều mạng làm ác, mang đến cho xã hội này những tai nạn lớn, chúng sanh vô cùng thống khổ. Truy cứu nguyên nhân căn bản chính là ở ngay cuộc sống thường ngày của chúng ta. Ngay cả lời nói không cẩn trọng cũng tạo thành hậu quả, mang đến tai họa. Phật đã nói rất nhiều trong tất cả kinh luận nhưng chúng ta không lưu ý, không tỉ mỉ quan sát, và không cố gắng học tập.

Xưng tán Như Lai”, đặc biệt trong 53 đồng tham, Phật cho chúng ta xem một tấm gương. Chương sau cùng của Hoa Nghiêm nêu ra thiện tài đồng tử, một tấm gương tu học Đại thừa. Thiện Tài đồng tử là mẫu mực đại tâm phàm phu. Ngài gặp Phật pháp, hoan hỉ tín thọ, lễ Bồ tát Văn Thù làm thầy. Nhiều người nghe đến đây sẽ cho rằng Thiện Tài gặp vận may, được thầy giáo tốt là Bồ tát Văn Thù, liệu người khác có được may mắn như vậy và đến nơi đâu để tìm thiện tri thức? Thực ra Bồ tát Văn Thù ở ngay trước mặt mà nhiều người không nhận biết. Đó là “Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh”. Văn Thù biểu thị trí tuệ. Kinh này tràn đầy trí tuệ viên mãn. Y theo bộ kinh này mà tu học, đó chính là chúng ta đang thân cận Bồ tát Văn Thù, trở thnh học trò của ngài. Sau khi học thì lập tức ứng dụng, đó chính là tham học. Thiện Ti trong hội của Bồ tát Văn Thù, thành tựu được căn bản trí, sau đó Văn Thù khuyên bảo ngài đi tham học. Tham học biểu thị đời sống. Làm thế nào đem cái mình đã học thực tiễn ngay trong đời sống. Năm mươi ba vị thiện tri thức đều là Bồ tát. Họ thị hiện tướng nam nữ già trẻ, các ngành nghề y như đời sống của chúng ta. Từ sớm đến tối, chúng ta tiếp xúc tất cả mọi người, tất cả việc, vật, đó chính là năm mươi ba tham học, thảy đều là hoá thân của chư Phật Như Lai.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27178)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21767)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22233)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23603)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21948)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24752)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18989)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24761)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30974)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23988)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27764)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26511)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21315)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23224)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38130)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19976)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19045)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23169)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23879)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22802)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22910)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29574)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20641)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18709)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15847)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18857)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19680)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20154)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19954)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18117)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22933)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34166)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16419)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16918)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39245)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26070)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20098)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18852)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24060)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29140)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22903)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30959)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21009)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26851)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20678)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26266)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23324)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19818)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24675)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30046)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20222)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20404)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23899)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant