Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 32

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10346)
Phần 32


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 32)

 

Pháp Sư Tịnh Không

“ĐIỀU CHÚNG SANH, TUYÊN DIỆU LÝ, TRỮ CÔNG ĐỨC, THỊ PHƯỚC ĐIỀN, DĨ CHƯ PHÁP DƯỢC, CỨU LIỆU TAM KHỔ”

Đoạn kinh văn đại ýbi trí liệu khổ”. Kinh Phật nói tam giới đều khổ, đó là nói đến trời, nhân gian. Trong mấy năm gần đây, người hiện đại chúng ta cảm xúc rất sâu sắc cái khổ của nhân gian. Trên trời cũng vậy. Kinh Phật cho biếthai mươi tám tầng trời, cũng rất khổ. Khổ vô lượng vô biên có thể được phân làm ba loại lớn “khổ khổ, hoại khổ, hành khổ”.

Khổ khổ”, chữ khổ phía sau là danh từ, phía trước là động từ, ý nói quá nhiều quá rộng. Phật quy nạp thành tám loại, gọi là tám khổ, mục đích thuyết minh nói rõ khổ khổ. Trong đó có sanh lão bệnh tử, cầu bất đắc, ái biệt ly, oán tắng hội, ngũ ấm xí thạnh. Tôi sẽ không nói tỉ mỉ vì mất nhiều thời gian. Ngoài tám khổ giao nhau, còn có hoại khổ, đối với tất cả sắc tướng luôn biến hoại. Khi nó tồn tại, chúng ta cảm thấy tốt đẹp, đến khi biến hoại liền cảm thấy rất khổ. Sau cùng là hành khổ. Thí dụ như người thế gian thường nói “không thể trẻ mãi”, đây thuộc về hành khổ. Sát na đang thay đổi, xê dịch đều thuộc về hành khổ.

Phật nói, trong dục giớiba loại khổ này, rất khó vượt qua. Trời sắc giới không có khổ khổ, vì khống chế được dục, nên gọi là “thiểu dục tri túc”. Họ có trí tuệ, sức định, xả bỏ được tham ái hưởng thọ trong năm dục sáu trần, do đó họ không có khổ khổ. Người trời sắc giớihoá sanh, cho nên họ cũng không có khổ sanh lão bệnh tử. Họ đều xả bỏ năm dụctài, sắc, danh, thực, thuỳ”. Trong khi đó, cõi dục giớithai sanh, noãn sanh, thấp sanh chiếm đại đa số.

Một điều khiến chúng ta khó tưởng tượng. Chúng ta có thể xả tài, xả sắc, con người vẫn chưa phải chết; danh có thể không cần, nhưng ăn thì không được. Có người nào chịu nổi không ăn, không ngủ? Thế nhưng, các vị phải biết, người trời sắc giới thiền định rất sâu, “thiền duyệt vi thực”. Cái ăn dùng để nuôi thân, nhưng nuôi thân không cần phảithức ăn, đó là thiền định. Thiền định cũng là trạng thái tỉnh táo, không hôn trầm. Họ ở trong định năm dục, nhằm chứng minh cho chúng ta họ đều có thể xả được. Hiểu rõ đạo lý này, chúng ta nên tận khả năng hạ thấp lòng tham sân si xuống. Như thế mới tốt cho chính mình. Không chỉ giúp đỡ việc tu học, giúp bạn khai trí tuệ, mà còn giúp thân thể bạn khoẻ mạnh sống lâu, không dễ già yếu.

Định huệ khởi lên tác dụng nhất định. Người sức định càng sâu, họ biết thân thể này phiền phức, chính là sắc tướng. Người trời sắc giớithân thể, tuy không khổ khổ, nhưng họ có hoại khổ. Thân hình có ngày sẽ hoại đi. Hoàn cảnh lầu các cung điện cũng sẽ hủy diệt. Cho nên họ có hoại khổ. Hoại khổ bắt nguồn từ đâu? Từ thân. Vì có sắc tướng nên mới có hoại khổ. Người thông minh biết tiến thêm một bước, tức không cần đến thân. Sắc tướng cũng xả bỏ, tiến vào vô sắc giới. Vô sắc giới đương nhiên khônghoại khổkhổ khổ, nhưng họ có hành khổ. Hành khổ chính là cảnh giới tốt nhưng không thể vĩnh viễn giữ gìn. Đó là tầng cao nhất trong tầng trời, không gì cao hơn. Họ không giữ gìn được thì liền phải hướng xuống đọa lạc, đây gọi là hành khổ.

Phật nói tam giới thảy đều khổ. Kinh Pháp Hoa hình dung ba cõi như nhà lửa. Bên trong đã cháy thì không nơi nào an toàn. Chúng ta nhất định phải biết, trong sáu cõi chỉ có khổ, không có vui. Bạn nói vui nhưng cái vui đó là cái khổ tạm thời đình chỉ nên bạn cảm thấy vui. Kỳ thật đó là cái thấy sai lầm của bạn. Phật thí dụ, con người mỗi ngày không thể ít đi ba buổi cơm. Ăn no ba bữa liền cảm thấy an vui. Nếu một bữa không được ăn thì thấy rất khổ. Hai bữa không được ăn sẽ càng khổ hơn, có thể thấy khổ là thật. Cái thân này có gì tốt, có gì vui? Đã đến lúc phải trị. Không trị không được. Đây là chân tướng sự thật.

Cho nên tỉ mỉ mà nghĩ, lời Phật nói mỗi câu đều chân thật. Phật xuất hiệnthế gian nhằm giáo hoá chúng sanh. Ngài vì việc này mà đến. Tám tướng thành đạo, tướng thứ bảy là “chuyển pháp luân tướng” chính vì sự việc này. Đối tượng giáo dục là tất cả chúng sanh sáu cõi, mở rộng hơn nữa là chúng sanh chín pháp giới. Đoạn này nói lên nguyên tắc giáo học của ngài “điều chúng sanh, tuyên diệu lý”.

“Điều chúng sanh, tuyên diệu lý”

Chúng sanh” ở đây là tất cả chúng sanh hữu tình, thuộc về động vậtcảm tình. Then chốt là chữ “điều”. Chúng sanh thân tâm không thể điều hòa. Bốn đại không hoà, trên sinh lý bạn liền đau bệnh. Tâm lý không hòa, bạn liền ưu tư phiền não. Cho nên nguyên tắc giáo học của Phật giúp chúng sanh cách điều tâm, điều thân. Tiêu chuẩn của điều là pháp tắc tự nhiên. Nếu thuận theo pháp tắc tự nhiên, thân tâm liền khoẻ mạnh. Pháp tắc của tự nhiên trong kinh Phật gọi là pháp tánh, Phật tánh tương ưng với thể tánh, đó gọi là điều thuận. Trái với thể tánh thì tất cả chúng sanh mê mất đi tự tánh. Cái tâm này là tư tưởng kiến giải của bạn, hoàn toàn trái với pháp tắc của tự nhiên nên chiêu cảm đến tất cả khổ nạn và những việc không vừa ý.

Pháp tắc tự nhiên là gì? Kinh luận Phật nói rất nhiều, mọi người đều biết, thế nhưng thân tâm bạn vẫn cứ trái ngược với pháp tắc nên bạn không được thọ dụng của Phật pháp. Còn tương ưng với pháp tắc thì bạn liền được đại tự tại, liền có thọ dụng chân thật, hạnh phúc viên mãn. Pháp tắc này nói với chúng tatướng có thể không”. Nhà Phật nói “tướng có tánh không”. Tánh chính là thể. “” không phải thật có. Bát Nhã Tâm Kinh mọi người ngày ngày đều đọc, “” gọi là diệu hữu, “không” gọi là chân không. “Diệu hữu phi hữu, chân không bất không”, cho nên trước chữ “không” thêm một chữ “chân”. Chân không ý nói tâm tánh của chúng ta. Tâm tánh biến hiện ra tướng, những tướng này gọi là diệu hữu. Sum la vạn tượng, bao gồm chính thân thể của chúng ta, bao gồm tất cả vạn tượng; cái vạn tượng này không thật.

Kinh Kim Cang nói “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Hư vọng không thể nói không có tướng. Tướng là hư vọngtướng không thể tồn tại vĩnh hằng. Không chỉ tướng của mười pháp giới không thể tồn tại vĩnh hằng mà tướng của pháp giới nhất chân cũng không thể tồn tại. Thế nhưng chúng ta thấy những hiện tượng này vẫn tồn tại một khoảng thời gian, tướng tiếp nối tướng, như vậy mới hiểu rõ chân tướng sự thật. Nếu hiểu rõ chân tướng sự thật, chúng ta sẽ không phân biệt đối với tướng, sẽ không chấp trước, vì nó là giả, mộng huyễn bào ảnh. Còn nếu bạn phân biệt thì bạn vọng tưởng, nếu chấp trước thì phiền não. Vọng tưởng phiền não do tự làm tự chịu.

Kinh Hoa Nghiêm nói, tất cả hiện tượng tồn tại thời giankhoảng sát na”. Kinh Nhân Vương nói, một khảy móng tay sáu mươi sát na. Một sát na có chín trăm lần sanh diệt, thời gian rất ngắn. Cũng như phim ảnh, trong máy chiếu là phim gốc, một giây đầu ống kính đóng mở hai mươi bốn lần. Trong một giây chiếu ra hai mươi bốn tấm. Phim gốc đó liên tục tướng tiếp nối tướng, chúng ta xem thấy như thật. Phật dùng cách nói này trên kinh Nhân Vương, “cái khảy móng tay của người khỏe mạnh”. Thân thể của đại lực sĩ rất khỏe mạnh nên khảy rất nhanh, một giây có thể khảy bốn lần. Bốn khảy móng tay nhân sáu mươi sát na, lại nhân tiếp cho chín trăm lần sanh diệt. Vậy tổng cộng có đến hai trăm mười sáu ngàn lần sanh diệt. Trên phim ảnh, một giây có hai mươi bốn tấm phim gốc đã có thể lừa được bạn. Bạn liền cho đó là thật. Nhưng nếu một giây là hai trăm mười sáu ngàn tấm thì làm sao bạn biết nó là giả?

Kinh Nhân Vương phương tiện nói. Các vị tỉ mỉ tư duy mới hiểu được lời Phật, mới thể hội phần nào câu “tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh, như sương cũng như chớp”. “Hoa Nghiêm phẩm thập định” nói rõ ràng hơn, một sát na không chỉ chín trăm lần sanh diệt. Chúng ta đọc kinh Nhân Vương thấy rõ việc này. Phật Thích Ca Mâu Ni phương tiện nói, không phải nói chân thật. Nếu nói chân thật thì tốc độ còn nhanh hơn gấp nhiều lần. Phật nói rõ chân tướng sự thật của vũ trụ hiện tượng, sát na sanh diệt, Phật cũng đem hiện tượng này gọi là “bất sanh bất diệt”. Vì sao Phật nói tất cả sanh diệt của pháp tướngbất sanh bất diệt? Vì tốc độ sanh diệt của nó quá nhanh, sanh diệt gần như đồng thời, cho nên gọi bất sanh bất diệt. Đó là ý nghĩa Phật nói pháp.

Chúng tanguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, nghĩ xem làm gì có pháp tướng tồn tại? Mười pháp giới y chánh trang nghiêm, bao gồm sáu cõi ba đường, căn bản không thể tồn tại, chân thậtmộng huyễn bào ảnh. Ấy thế mà tất cả chúng sanh mê ngay cảnh giới này, cho cảnh giới này là thật có. Từ đấy khởi lên vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Thế là đem hiện tượng sát na sanh diệt chuyển biến. Cái tướng đó là sát na sanh diệt, sát na chuyển biến. Vậy dùng sức mạnh gì để chuyển biến hiện tượng này? Dùng ý niệm, chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Ý niệm của bạn thiện, chuyển biếncảnh giới thiện; ý niệm ác, chuyển biếncảnh giới ác.

Do đây có thể biết thiên đường là do ý niệm biến ra, địa ngục cũng là do ý niệm biến ra, hiểu rõ học vấn trong cái đạo lý này thật to lớn, quan trọng nhất là điều tâm. Thân không phải lo vì thân là tùy tâm, tùy ý niệm mà biến hiện. Chúng ta phải chú trọng điều năng biến. Năng biến tương ưng với pháp tắc tự nhiên. Còn sở biến không quan trọng, sở biến thuận lý thành chương liền biến thành thế giới Cực Lạc, thế giới Hoa Tạng, thành khu vườn tốt đẹp thế gian, người người sinh hoạt đều hạnh phúc tràn đầy. Làm được hay không tùy thuộc bạn hiểu đạo lý trong đó, hiểu được cảnh giới diễn biến như thế nào?

Cho nên khi Phật dạy chúng ta, thực tế ngài đem thế giới Hoa Tạng, thế giới Cực Lạc phổ cập đến tất cả thế gian, khiến tất cả thế gian đều biến thành thế giới Cực Lạc, thế giới Hoa Tạng. Cách biến thế nào? Trước hết phải điều tâm. Thế giới Tây Phương Cực Lạc tốt đẹp đến như vậy vì lòng người ở đó tốt, kinh nói “các bậc thượng nhân cùng ở một nơi”. Nếu thế gian này của chúng ta, mỗi người đều là thượng thiện thì hoàn cảnh y báo của chúng ta ngày nay nhất định giống thế giới Cực Lạc. Tương tự, vì sao thế giới Hoa Tạng tốt đẹp đến như vậy? Vì người trong thế giới Hoa Tạng, mỗi mỗi đã đoạn kiếnphiền não, trần sa phiền não; phá được mấy phẩm vô minh, cho nên thế giới đó tốt đẹp.

Còn thế giới ngày nay của chúng ta vì sao không tốt? Tất cả chúng sanh tư tưởng kiến giải, lời nói tạo tác hoàn toàn trái ngược pháp tắc tự nhiên. Trong lòng nghĩ ra liền trái với pháp tắc tự nhiên, nên gọi là tà tri tà kiến, tạo mười ác nghiệp. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện đã nói, “chúng sanh Diêm Phù Đề khởi tâm động niệm đều là tội”. Tội nghiệp biến ra hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta. Đặc biệt một hai năm gần đây, thiên tai nhân họa ở đâu cũng có. Một số đồng tu đến hỏi tôi, liệu có thể tránh khỏi hay không? Tôi nói không cách gì tránh khỏi.

Nếu các vị muốn di dân, tìm một khu vực nào trên thế giới không bị tai nạn, thì tôi cũng xin nói, không hề có. Nơi nào con người không có tham sân si thì nơi đó chính là đất phước. Vậy bạn tìm thử xem, có nơi nào mà con người không tham sân si? Có nơi nào mà con người không tạo ác nghiệp? Bạn tìm được nơi này thì tốt. Chúng ta đều biết trên địa cầu không hề có, nên không thể tìm ra. Nhưng thế giới Tây Phương Cực Lạc lại có. Vì vậy, người niệm Phật, người học Phật là người sáng suốt.

Họ không sợ tai nạn, họ có thể tránh khỏi tai nạn. Tránh khỏi không phải tránh thân thể này không bị nạn. Thân gặp nạn hay không cũng không hề gì, vì thân không thể thường trụ trước sanh lão bệnh tử, việc này chúng ta phải triệt để giác ngộ. Tai nạn đến, chúng ta thấy rất bình thường, không chút lạ kỳ. Nghiệp nhân quả báo ngõ ngách ngọn nguồn, rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo thì bạn còn gì mà khẩn trương. Cho nên ở cảnh giới này, đại nạn đến đầu cũng không khiếp sợ. Tâm định, tâm thanh tịnh thì bất luận tai nạn thế nào cũng có thể tiếp nhận. Thân thể bị hủy diệt trong tai nạn, nhưng tinh thần, Phật pháp gọi là “thần thức”, thế pháp gọi là “linh hồn” đi tìm một thân thể khác. Đó không phải là chết.

Thân thể chúng tasanh diệt. Trong sanh diệt vẫn có cái “ta” không sanh diệt. Nói cách khác, thân này của ta sanh diệt nhưng thân không phải là ta. Nếu bạn nhận biết thần thức linh hồn là ta, thân không phải là ta thì coi như bạn đã nâng cao cảnh giới của chính mình. Thân chỉ là sở hữu của ta, cũng giống như mặc quần áo. Quần áo cũ rách, bạn sẽ đổi một bộ mới. Thân này hoại thì ta bỏ nó đi, lại đổi một thân khác. Bạn chân thật có chút công phu, không cần rất cao, bạn liền sanh tử tự tại. Sanh tử tự tạixả thân thọ thân, giống như lột bỏ quần áo thay bộ quần áo khác. Người thế gian không biết sự việc này, thay quần áo nhưng lại cảm thấy khổ. Đặc biệt trẻ con, bảo nó đổi một bộ khác rất khó. Nó chạy đông chạy tây, không cam tâm, cảm thấy như cực hình. Còn người lớn thì không như vậy. Quần áo dơ phải giặt. Kiểu dáng không thích hợp thì đổi kiểu mới. Họ an vui xả thân thọ thân.

Học Phật công phu xem sanh tử như thay bộ quần áo, không chút đau khổ, khẩn trương, khiếp sợ. Người như vậy xả thân thọ thân, khi thọ thân khác nhất định tốt đẹp hơn nhiều so với thân thể cũ, đó là thiện báo. Nếu khi xả thân, cảm thấy hoang mang, khiếp sợ, thì bạn sẽ đổi một thân khác xấu đi, đó là thân súc sanh, thân ngạ quỷ, khó có thể quay lại, giống như bạn bị thay đổi quần áo rách nát, khó coi. Học Phật có thể được chút thọ dụng này. Đây là thọ dụng nhỏ trong Phật pháp, không phải thọ dụng lớn. Vì sao? Bạn nhận biết thần thức là “ta”, nhưng thần thức vẫn không phải là ta. Chân thật ta chính là pháp tánh, thiền tông gọi là “minh tâm kiến tánh”. Kiến tánh thấy được chân ngã, tông môn gọi là “mặt mũi trước khi cha mẹ sanh ra”. Bạn nhận định thần thức là ta, không nhận cái thân này là ta thì bạn có thể thoát khỏi sáu cõi luân hồi, nhưng không rời khỏi sáu cõi luân hồi. Bạn nhất định được hưởng phước trời, sanh lên trên cõi trời. Cao minh hơn thì siêu việt sáu cõi, nâng cao lên pháp giới của thanh văn, duyên giác, Bồ tát. Trong mười pháp giới, pháp giới bốn thánh là không gian sinh hoạt của bạn, thù thắng hơn nhiều so với sáu cõi.

Nếu bạn biết thần thức vẫn không phải là ta, vẫn là giả, tự tánh mới là ta, vậy thì công đức của bạn liền viên mãn. Bạn liền siêu việt mười pháp giới, đi đến thế giới Hoa Tạng, thân cận Tỳ Lô Giá Na Phật, làm bạn với bốn mươi mốt vị pháp thân đại sĩ; hoặc vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, vĩnh viễn siêu việt mười pháp giới. Đó là chân tướng sự thật. Phật xuất hiệnthế gian muốn nói cho chúng ta nghe sự việc này, chân thật có thể “điều chúng sanh”. Cho nên chúng ta học Phật, hiện tại quan trọng nhất phải tu “tâm thanh tịnh”.

Đề kinh của kinh Vô Lượng Thọ đưa ra nguyên tắc tu học: thanh tịnh, bình đẳng, giác. Ba nguyên tắc này nhắc chúng ta mọi nơi mọi lúc đối nhân xử thế tiếp vật, phải tu tâm thanh tịnh. Tất cả mọi người không nhiễm ô tâm tánh. Nếu trong đối xử mọi người, thuận với chính mình thì khởi ý niệm thương yêu, không thuận với chính mình thì sanh sân hận, đố kỵ, như vậy tâm của bạn bị ô nhiễm, không thanh tịnh. Cho nên tu hành là tu ở ngay đây, khi tất cả cảnh giới hiện tiền phải rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, không bị cảnh giới bên ngoài ô nhiễm, bạn mới có được công phu chân thật. Hay nói cách khác, cảnh giới trước mắt rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, đó là huệ. Trong lòng như như bất động, không phân biệt, không chấp trước, không khởi tâm không động niệm, đó là công phu.

Chúng ta tu hành phải tu trong hoàn cảnh nhân sự, trong hoàn cảnh vật chất. Mỗi ngày sáu căn tiếp xúc tất cả người, vật, việc, ý niệm vừa khởi lên, cho dù niệm thiện hay ác đều là ô nhiễm. Ác niệmô nhiễm, thiện niệm cũng là ô nhiễm, nên khi ý niệm vừa khởi lên, câu “A Di Đà Phật” làm cho ý niệm này lắng xuống. Đó là phương pháp của Tịnh tông chúng ta dùng. Một câu Phật hiệu làm cho ý niệm lắng xuống, hoá giải hết ý niệm, tất cả vọng niệm thảy đều qui về câu A Di Đà Phật, đức hiệu trong tự tánh của chúng ta. A Di Đà Phật chính là chân như bổn tánh của chúng ta, đó là một câu Phạn ngữ, dịch sang ý nghĩa Trung Quốc là “Vô lượng giác”. Tất cả đều quy về vô lượng giác. Danh hiệu đạo sư của thế giới Tây Phương Cực LạcA Di Đà Phật, cho nên kinh Phật thường nói “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ”, đó là từ trên tâm tánh mà nói.

Bạn phải biết niệm câu Phật hiệu này, đem tất cả ý niệm của bạn chuyển biến thành A Di Đà Phật. Trong tâm bạn, ngoài câu A Di Đà Phật, không có bất cứ tạp niệm nào. Có như thế tâm thanh tịnh của bạn mới hiện tiền, kinh Di Đà nói “Nhất tâm bất loạn”. “Niệm Phật tam muội”, “tam muội” là tiếng Phạn, ý nghĩa là “chánh thọ”, hưởng thụ bình thường. Ngày nay chúng ta hưởng thụ không bình thường. Còn hưởng thụ bình thườngvô niệm, “niệm mà không niệm, không niệm mà niệm”, đó là hưởng thụ bình thường.

Cho nên tông chỉ giáo hoá chúng sanh của Phật, mục đích chính nhằm “điều chúng sanh tuyên diệu lý”. Diệu lýchân tướng sự thật, cũng là “thật tướng các pháp”, chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Phật vì chúng ta nói rõ sự việc này để chúng ta hiểu rõ. Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta phải chính mình khế nhập cảnh giới này, tự lợi công đức. Tuy nhiên, thế gian vẫn còn rất nhiều chúng sanh chưa giác ngộ, chúng ta không thể không quan tâm, Phật pháp gọi là “tự cho mình cao”. Phật không tán thán những người như vậy. Bạn tự độ, còn phải giúp đỡ người khác, đó là Bồ tát.

“Trữ công đức, thị phước điền”

Muốn hoá tha cần phải tự độ. Đối với chân tướng sư thật, bạn không thấu triệt, không hiểu rõ; tà kiến, phiền não, tập khí của chính mình chưa đoạn dứt thì làm sao có thể giúp người khác. Trên thực tế, chúng ta cũng từng thấy việc mượn danh để tư lợi, giả mượn Phật pháp tạo ra vô lượng vô biên tội nghiệp, thỏa mãn dục vọng của riêng mình. Họ có thể nói khéo léo, giảng kinh có đầu có đuôi, cũng xây dựng đạo tràng trang nghiêm, cũng có không ít đồ chúng tu hành theo, thế nhưng những gì họ làm hoàn toàn trái ngược Phật pháp, vẫn cứ danh vọng lợi dưỡng, vẫn phải quấy nhân ngã, vẫn mỗi niệm xem nặng được mất.

Vì sao có lỗi lầm này? Vì họ không làm được hai câu trên, cho nên công đức liền biến thành phước đức, thậm chí công đức phước đức còn biến thành tội lỗi. Họ khuyên bảo mọi người tu phước, cùng xả tài tu phước. Khi mọi người xả tài, còn họ thì đựng đầy trong túi, phục vụ chính mình. Người xưa không như vậy. Người xưa hiểu xây dựng đạo tràng trang nghiêm, không phải chính mình hưởng thụ. Các vị tỉ mỉ quan sát những tòng lâm được xây dựng vào thời xưa, phòng ốc của trụ trìchấp sự rất thô sơ. Do đây có thể biết đại chúng cúng dường để tu phước, nhưng chính họ không hưởng. Nói cách khác, ăn mặc ngủ nghỉ của họ không hề thay đổi. Đó là rõ lý, không tạo tội nghiệp.

Hiện tại khi mọi người quyên mộ nhiều tiền, xây dựng đạo tràng lớn, trước tiên thường bố trí rất đẹp hoàn cảnh cư trú của chính mình, như vậy là tạo tội nghiệp. Xây dựng đạo tràng để có nơi làm đạo, nơi cúng cho chúng, không phải cúng dường chính mình. Nhà Phật từng nói “một hạt gạo của thí chủ nặng như núi Tu Di. Đời nay không liễu đạo, mang lông đội sừng để trả”. Lời nói này là thật, không phải giả. Bạn làm gì có phước báu lớn đến vậy, có thể hưởng thọ mười phương chúng sanh cúng dường. Chỉ có Phật và đại Bồ tát mới có phước báu này. Người mê hoặc điên đảo, hưởng phước báu không được vài năm, khi chết đều mơ mơ hồ hồ mà chết, chết rồi đi đâu? Tương lai vẫn không tránh khỏi phải trả nợ.

Cho nên Phật dạy chúng tatrữ công đức”, không phải phước đức. Trong công đứcphước đức, nhưng trong phước đức chưa chắc có công đức. Công đức do tu công mà có. Thí dụ chúng ta trì giới có công, bạn liền được định, định chính là đức. Tu định có công, trí tuệ khai, khai huệ là đức. Do đây mà biết, công là tu nhân, đức là quả báo. Tu nhân được quả là đạo lý nhất định. Chúng ta phải trữ công đức, tích công bồi đức.

Làm thế nào để giữ được công đức? Chữ “trữ” này rất quan trọng. Trữ là tồn trữ, lưu kho, công đức của bạn mới có thể tích lũy. Nhà Phật nói: “lửa thiêu rừng công đức”. Công đức rất khó tồn trữ. Chỉ một đám lửa thì cháy sạch, đó là lửa sân hận. Vừa khởi tức giận, công đức đều hết. Bạn phải biết, cả đời này tu hành trữ được bao nhiêu công đức. Sau đó bạn nghĩ lại xem mình không khởi tức giận bắt đầu từ lúc nào. Nếu sáng sớm nay khởi lên một cơn giận chỉ có mấy giờ đồng hồ, công đức của đời quá khứ và đời này đã tu thảy đều cháy sạch, không còn gì cả.

Người hiện tại nói đến công đức, thực ra đều hữu danh vô thực. Có cái tên của công đức, tu tên của công đức nhưng không tu công đức thật. Khi trong lòng không vui thì công đức hết. Phải biết thế gian yêu ma quỷ quái rất nhiều. Chúng chỉ sợ bạn tích công bồi đức nên thị hiện vô số cảnh giới, vô số nhân duyên nhằm phá hoại công đức của bạn. Thế nhưng bản thân họ không có năng lực phá hoại công đức của bạn, thậm chí bất cứ người nào cũng đều không cách gì phá hoại công đức của bạn được. Chỉ có chính mình phá hoại chính mình. Họ thúc đẩy bạn, khiến bạn khởi tức giận, khởi tâm sân hận. Nếu bạn nghe lời, quả nhiên khởi tức giận, khởi tâm sân hận thì coi như bạn đem công đức của mình thiêu hết sạch. Ma ở nơi đó liền vỗ tay vui mừng.

Chúng ta hiểu rõ đạo lý thì nhất định phải đề cao cảnh giác. Tất cả thuận cảnh không sanh tâm hoan hỉ, nghịch cảnh không khởi tâm sân hận thì công đức của bạn mới có thể giữ được. Phía trước hàng ma, Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện cho chúng ta xem, “định huệ lực, hàng phục ma oán”. Nếu bạn không có định, không có huệ, thì công đức của bạn không thể giữ được. Ở trong cảnh giới thường hay khởi tâm động niệm, tâm tùy theo cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, đó là tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi, tương lai chịu báo luân hồi. Cho nên chúng ta trong cuộc sống thường ngày phải rèn luyện. Rèn luyện chính là tu hành.

Ngày trước sáu căn chúng ta tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, dễ bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển. Xem thấy ưa thích, chúng ta khởi lên tâm hoan hỉ, xem thấy không ưa thích chúng ta khởi tâm ghét bỏ, vậy là sai, phải tu sửa lại. Tu sửa thế nào? Thuận cảnh không sanh tâm hoan hỉ, nghịch cảnh không sanh tâm áo não, đó gọi là tu hành. Tu hành không phải mỗi ngày tụng kinh, niệm Phật, lạy Phật, tất cả chỉ là hình thức. Tu hành phải chân thật hữu dụng, phải dùng được ngay trong đời sống, đối diện với tất cả mọi người, mọi vật, mọi việc thật khởi lên tác dụng, không còn bị cảnh giới này xoay chuyển, mới gọi là có công phu. Bạn ở niệm Phật đường niệm Phật mỗi ngày mười vạn danh hiệu Phật. Khi đối diện với cảnh giới, tâm còn bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, vậy thì như người xưa nói, “đau mồm rát họng chỉ uổng công”, bạn không có công phu, hoặc công phu của bạn là giả, không phải thật.

Công phu phải trải qua sự khảo nghiệm, cùng ở với mọi người, cùng giao lưu với chúng sanh, cũng phải có biểu lộ. Nếu biểu lộ trên mặt giống tượng thần điêu khắc thì có thể hù chết người trong xã hội. Giao lưu với tất cả chúng sanh, tuy biểu hiện hỉ, nộ, ai, lạc nhưng phải là biểu diễn, không phải thật. Bên trong thanh tịnh vô nhiễm, như Vĩnh Gia từng nói “phân biệt diệc phi ý”. Ứng dụng ngay trong cuộc sống thường ngày phải hoạt bát, hiển thị Phật pháp đáng quý, viên dung, thọ dụng chân thật. Từng li từng tí không ô nhiễm, có định huệ. Đây gọi là công phu, bạn chân thật là trữ được công đức.

Thị phước điền”. Bạn còn phải tu phước. Tu phước quyết không phải vì chính mình mà vì chúng sanh. Không có phước báu làm sao độ chúng sanh. Cho nên thành Phật, Phật gọi là “nhị túc tôn”, túc đầy đủ, viên mãn. Nhị là hai loại, trí tuệ viên mãnphước đức viên mãn.

Phật biểu thị phước đức viên mãn. Có phước lớn mới có thể cho tất cả chúng sanh hưởng phước. Ngày nay chúng ta ngồi ở đạo tràng này hai giờ đồng hồ là hưởng phước báu của chư Phật. Mười phương chúng sanh xả tài, xả lao lực để được phước báu này cho chúng ta cùng hưởng. Chúng ta cũng phải học tập, có phước nhất định phải cho mọi người cùng hưởng, không nên hưởng riêng mình. Hưởng riêng là tạo nghiệp, còn cho mọi người hưởng gọi là tu phước.

Thị” chỉ ra những gì là phước điền. Có rất nhiều phước điền. Nói cách khác, cơ duyên tu phước quá rộng. Nhà Phật phước điền vô lượng, quy nạp thành ba loại lớn.

Loại thứ nhất gọi là “Bi điền”, từ bi, lân mẫn. Tất cả chúng sanh trong mười pháp giới đều bần cùng khổ nạn, không phải chỉ người không có cơm ăn áo mặc, mà cả những người có phước báu, ở nơi phòng ốc rất tốt, đời sống dư giả. Loại người này không nghèo cùng nhưng cũng chẳng khác người không có cơm ăn áo mặc. Vậy họ nghèo ở chỗ nào? Nghèo cùng ở trí tuệ. Đời sống vật chất của họ có thể trải qua nhưng đời sống tinh thần rất khổ. Cho nên nghèo cùng có loại nghèo về vật chất, và nghèo về tinh thần, nghèo về đạo nghiệp, hay nghèo trí tuệ. Phạm vi nghèo cũng quá rộng lớn. Chúng ta chỉ mới so sánh năng lực kỹ thuật với người khác rồi cho rằng nghèo cùng hay lạc hậu nhưng không biết phạm vi sâu rộng vô hạn của nghèo cùng. Bồ Tát thấy điều đó. Các ngài đại từ đại bi giúp đỡ chúng ta trồng phước. Phương pháp trồng phước điền cũng rất nhiều. Bạn phải có trí tuệ, mỗi giờ đều là giờ để tu phước, nơi nơi đều là chỗ để tu phước. Hiện tại người thế gian nghèo cùng, việc này người căn tánh trung hạ đều có thể quan sát rõ ràng. Chính mình phải biết làm thế nào cứu giúp chúng sanh khổ nạn nghèo cùng của thế giới.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29901)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27182)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21773)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22238)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23615)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20433)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21951)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24760)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18995)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24772)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30988)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23996)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27766)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26530)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21330)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23233)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38145)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18807)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19991)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19054)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23176)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23894)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22822)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22929)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29593)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20649)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18716)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15851)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18865)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19692)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20161)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19958)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22954)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34186)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16426)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16925)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26084)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20107)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18865)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24074)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29155)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22906)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30970)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21016)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26865)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26270)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19825)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24691)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30049)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20232)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20413)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15148)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15843)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23915)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant