Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 16

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10666)
Phần 16

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 16)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Mười loại tâm nghịch sanh tử luân hồi như sau:

Thứ nhất, Phật khuyên bảo chúng ta phải “minh tín nhân quả”, bốn chữ này rất hay. Minh là trí tuệ, không phải mê tín. Đối với chân tướng sự thật, bạn phải làm cho rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, chân thật tin tưởng nhân quả. Phật nói tất cả kinh đều không rời nhân quả, thế gian pháp không thể thoát khỏi nhân quả, Phật pháp cũng không thể thoát khỏi nhân quả. Nhân quả tuyệt đối không phải mê tín, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, đó là nhân quả. Nhất định không thể trồng đậu được dưa, trồng dưa được đậu, cho nên nhân thiện nhất định được quả thiện, nhân ác nhất định cảm ác báo. Thế nhưng có lẽ chúng ta sẽ xem thấy một số hiện tượng trong xã hội dường như không hề tương ưng với những gì Phật pháp đã nói, một số người ác hưởng phước, người thiện thì bị chịu tội, đời sống vô cùng khốn khổ, việc này dường như không phù hợp với sự thật nhân duyên quả báoPhật pháp đã nói. Thực ra đó là bạn chưa tường tận thông suối đối với sự thậtluân lý của nhân quả.

Cho nên không hiểu “Minh tín nhân quả” mới sanh ra hiểu lầm. Nhân quả thông cả ba đời, điểm này chúng ta nhất định phải tin tưởng, phải khẳng định. Bất cứ chúng sanh nào cũng có đời quá khứ, hiện tại, và tương lai. Nhân quả thông cả ba đời, đời trước tu thiện tích đức, đó là trồng nhân thiện thì đời này được giàu sang phú quý. Cái họ hưởng là phước báu, quả quá lớn, đời này cho dù tạo rất nhiều tội nghiệp nhưng cái phước thừa vẫn chưa hưởng hết, cho nên họ vẫn đang tiếp tục hưởng phước. Thế nhưng các vị phải biết, ngay trong đời này, họ chỉ hưởng phước lại tạo tội nghiệp, không chịu tu phước thì phước báu tuy lớn cũng sẽ tiêu hao rất nhanh. Phước báu có thể rất lớn đến mức khi họ lâm chung, phước báu lớn vẫn hiện tiền, tội báo chưa hiện ra, thế nhưng đời sau của họ thì thê thảm, việc này chúng ta cũng thường xem thấy. Đó là những người có phước báu rất lớn, còn những người không có phước báu lớn như vậy, họ hưởng phước cũng không chịu tu phước, lại còn tạo ác. Hưởng được vài mươi năm thì phước báu cũng sẽ không còn, nôm na gọi là phá sản, cuối đời của họ không bảo đảm. Trong xã hội, chúng ta cũng đã xem thấy rất nhiều hiện tượng này.

Đối với người tu phước, cuộc sống cả đời rất khổ cực do đời quá khứ không tu phước nên hiện tại họ phải chịu quả báo. Ngày nay họ tu phước tích thiện, trồng nhân tốt thì đời sau họ được phú quí. Cho nên người phú quí không phải đời đời phú quí, người nghèo khổ cũng không phải đời đời nghèo khổ. Tạo hoá đối với người rất công bình, đời này hưởng phước, đời sau chịu tội; người đời này chịu tội thì đời sau hưởng phước, nhân duyên quả báo không hề sai lọt. Khi hiểu rõ đạo lý, thông đạt chân tướng sự thật thì chúng ta phải chăm chỉ nỗ lực đoạn ác tu thiện, sám trừ nghiệp chướng, quả báo ngay đời này có thể hiện tiền, liền có thể hưởng thụ. Đó mới là người thông minh sáng suốt. Cho nên bốn chữ “Minh tín nhân quả” bạn chân thật hiểu rõ, chịu làm sẽ thay đổi được vận mạng của mình.

Tiên sinh Viên Liễu Phàm đời nhà Minh đã thay đổi được vận mạng của chính mình. Trong mạng của ông không có công danh, còn gọi là học vị. Ông đi học không lấy được học vị. Sách đọc rất tốt nhưng đi thi thì không đậu, vì không có cái mạng này. Nếu trong mạng có thì dù sách học không tốt lắm nhưng đi thi cũng gặp được mấy đề mục đã biết, họ liền thi đậu. Tiên sinh Liễu Phàm trong mạng không có học vị cao. Học vị của ông chỉ đến tú tài, nhưng sau cùng ông lấy được tiến sĩ, học vị cao nhất. Do ông đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức mà cầu được, chân thậtPhật thị môn trung hữu cầu tất ứng”. Trong mạng của ông không có con cái nhưng ông cầu được con trai. Kết quả sau đó ông sanh hai đứa con trai đều ngoan, hiếu tử hiền tôn. Trong mạng ông tuổi thọ không dài, chỉ khoảng 53 tuổi. Ông tuyệt nhiên không cầu tuổi thọ, tuy không cầu trường thọ nhưng sự tích công bồi đức tự nhiên ông liền được tăng thêm tuổi thọ sống đến hơn bảy mươi tuổi.

Trong mạng không có nhưng có thể cầu được. Rất nhiều người thế gian hiện tại đến chùa miếu thắp hương bái Phật dập đầu để cầu thăng quan phát tài, khi vừa cầu được như ý thì cho là Phật Bồ tát rất linh. Kỳ thật do trong mạng của bạn có, cũng vừa lúc vào năm đó bạn phải phát tài, bạn đi cầu xin cũng vừa vặn gặp được chứ không phải Phật Bồ tát bảo hộ. Đó là trong mạng có. Giả như Phật Bồ Tát thật linh nghiệm như vậy thì mỗi người đi cầu xin đều phải được phát tài, được thăng quan tiến chức, đàng này một trăm người đi cầu xin mà chỉ có một người phát, còn chín mươi chín người kia không phát, nên tôi không tin do các ngài linh. Việc này đầu óc chúng ta phải tường tận một chút, đừng để mê hoặc điên đảo đến như vậy. Chỉ có Phật dạy chúng ta một người cầu xin một người nhận được, một vạn người cầu xin thì một vạn người nhận được, không thể sót, nó có đạo lý trong đó. Cho nên chúng ta phải chân thật tin sâu nhân quả. Học Phật cũng phải ngay nhân quả mà bắt đầu.

Tôi ở mỗi nơi đều khuyên mọi người học Phật, đều dạy người phải từ “Liễu Phàm Tứ Huấn” mà học. Tôi không dạy họ phải bắt đầu từ bộ kinh luận nào, mà trước tiên bạn đem “Liễu Phàm Tứ Huấn” đọc qua ba trăm lần. Phải hạn định thời gian đọc nó cho xong, chí ít một ngày đọc một lần, đọc trong một năm bạn liền có tâm đắc. Bạn sẽ tin tưởng, hiểu rõ, lý giải, đời sống liền có sự thay đổi. Mỗi ngày bạn phải đọc qua một lần mới hữu dụng. Đạo lý này cũng là ở trong giáo học chúng ta đã đề xướngMột môn thâm nhập, trường kỳ huân tu”. Còn đọc gián đoạn thì sẽ không có hiệu quả.

Ngày trước Đại sư Ấn Quang dạy người, cách dạy của ngài chính là như vậy. Cả đời đại sư toàn tâm toàn lực đề xướngLiễu Phàm Tứ Huấn”, đề xướngCảm Ứng Thiên”, và đề xướngAn Sĩ Toàn Thư”. Ba loại này đều là môn sám hối chân thật, dạy chúng ta tu “Sám trừ nghiệp chướng” của Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Bạn đọc thuộc, chân thật hiểu rõ, chân thật thấu suốt, khi đó bạn đối nhân xử thế tiếp vật, cách nhìn cách nghĩ của bạn tự nhiên sẽ chuyển đổi lại, sẽ đoạn tất cả ác tu tất cả thiện. Bạn không có công lực của ba trăm biến này, đoạn ác tu thiện rất khó làm được, vì sao? Cái ác là tập khí từ vô thỉ kiếp đến nay, làm gì dễ dàng chuyển đổi. Cho nên “Minh tín nhân quả” của Phật thì chữ “Minh” là then chốt vô cùng quan trọng. Bạn phải có trí tuệ, tuyệt đối không phải mê tín. Sau khi chân thật tin tưởng nhân quả, tự nhiên bạn sẽ không đùn đẩy trách nhiệm, sẽ không nói chính mình tạo tác tội nghiệp đều do người khác. Những việc mình làm sai rồi đẩy qua cho người khác, trọng tội này vô cùng sâu nặng.

Ngày nay chúng ta xem thấy trong xã hội tai biến khắp địa cầu, họ không bao giờ cho rằng “Đó là trách nhiệm của tôi”. Các vị hãy tỉ mỉ nghĩ xem, mấy mươi năm sống trên đời này, có bao giờ bạn thấy ai quy trách nhiệm cho chính mình về những tai biến trên địa cầu, có hay không? Không chỉ không thấy qua, thậm chí nghe cũng chưa từng nghe qua. Giả sử có nghe qua thì phần lớn mọi người cho kẻ đó là loại người hồ đồ, tai hại tự nhiên này có liên quan gì với cá nhân ai, cơn cớ gì phải gánh vác trách nhiệm chứ? Kỳ thực chân thậttrách nhiệm của chính mình đặc biệtbốn chúng đệ tử nhà Phật chúng ta, tại gia, xuất gia đều như vậy. Xuất gia, chúng ta không giống như một người xuất gia, không hề làm tốt công việc của người xuất gia cho nên mới vướng phải cái tai biến của thế gian này, đó chẳng phải Phật đã nói “Y báo tuỳ theo chánh báo chuyển”. Cái chánh báo của chúng ta không tốt cho nên cảm đến y báo liền có tai nạn, đương nhiên là trách nhiệm của ta. Tại gia học Phật cũng không ngoại lệ. Không luận bạn trải qua đời sống như thế nào, từ công việc nghề nghiệp nào, bạn không ở ngay trong công việc nghề nghiệp của bạn mà hành Bồ tát đạo. Học Phật không gì khác hơn là chúng ta phải hành Bồ tát đạo.

Cái gì gọi là Bồ tát đạo? Làm gương tốt cho tất cả chúng sanh, người xuất gia phải làm tấm gương tốt cho người xuất gia; người tại gia phải làm tấm gương tốt cho người tại gia. Bạn là người vợ trong gia đình thì phải là một tấm gương tốt cho những người vợ trong gia đình. Bạn buôn bán mở cửa hàng, cái cửa hàng cũng phải là một gương tốt cho tất cả các cửa hàng, đoan chánh lòng người, đoan chánh xã hội, y báo này đương nhiên sẽ chuyển đổi được. Đệ tử Phật hành Bồ Tát đạo, không luận từ nơi nghề nghiệp nào, nhất định phải phát tâm. Ta dùng phương thức đời sống, dùng cái nghề nghiệp của mình để phục vụ xã hội. Chúng ta cống hiến phục vụ xã hội, không có tâm tham, không màng danh lợi, hoàn toàn chỉ phục vụ, đó mới chính là Bồ tát. Nếu lấy danh lợi làm mục đích, đó là tâm phàm phu. Cùng làm một công việc như nhau, Bồ tát cùng phàm phu không hề khác biệt, chỉ có dùng tâm trên quan niệm không giống nhau. Một người vì chính mình, một người vì xã hội, vì chúng sanh.

Khu vực Singapore là đất phước, có nhiều Bồ tát. Làm sao biết được có nhiều Bồ tát? Chúng ta ở nơi đây giảng Bồ tát kinh, bạn xem thấy rất nhiều Bồ tát đến nghe. Nhưng nếu giảng kinh này ở khu vực khác sẽ không có được mấy người nghe. Khi ở Hoa Kỳ giảng kinh, có đến một trăm người nghe. Pháp duyên như vậy đã được xem như rất thù thắng. Một lần pháp sư Diễn Bồi nói với tôi rằng ông được Thẩm Gia Trinh mời đến Hoa Kỳ. Lúc đó ông không rõ tình hình của Hoa Kỳ nên rất hoan hỉ, bỏ tất cả những gì có được ở Singapore, di dân đến Hoa Kỳ. Việc di dân cũng rất thuận lợi, giấy mời di dân đến ngay trong ngày, chỉ nửa giờ là nhận được. Trường hợp này rất ít. Ông di dân đến nước Mỹ ngay trong ngày, bên đó giảng kinh nói pháp tại chùa Đại Giác ở Newyork, đó là đạo tràng của cư sĩ Thẩm Gia Trinh. Hôm đó pháp sư Diễn Bồi giảng kinh cho hơn năm mươi người nghe. Sau khi giảng xong ai ai cũng đồng tán thán, họ còn ca ngợi pháp duyên của ngài thù thắngthính chúng tham dự đông như vậy. Pháp sư Diễn Bồi kể lại: “Tôi nghe họ nói mà nước mắt từ trên đầu chảy xuống đến chân. Tôi ở Singapore giảng kinh có mấy ngàn người đến nghe, nơi đây chỉ có năm mươi người mà đã là pháp duyên quá thù thắng rồi. Tôi liền vội vàng quay trở về Singapore, không cần thẻ xanh ở Hoa Kỳ nữa”, đó là sự thật

Ngày nay bạn giảng kinh nói pháp ở bất cứ nơi nào trên toàn thế giới, số lượng người đến nghe nhiều nhất chỉ ở Singapore hoặc Đài Loan. Nếu mỗi ngày giảng kinh tại một đạo tràng, muốn duy trì số lượng người nghe nhiều là việc không dễ. Thỉnh thoảng diễn giảng một lần thì sẽ có mấy ngàn người đến tham gia, không khí nhộn nhịp, náo nhiệt, còn mỗi ngày đến giảng kinh thì sẽ không náo nhiệt như vậy. Người đến nghe mỗi ngày đông đảo mới chính là Bồ tát chân thật, muốn đến để học Bồ tát đạo, tu hạnh Bồ Tát. Ở nơi đây, có lúc tôi ngưng giảng mười năm. Ngay trong mười năm này, thính chúng có tăng không giảm, mỗi năm đều nhiều hơn một vài người. Cho nên tôi mới nói nơi đây có nhiều Bồ tát.

Thứ hai, “tự hối khắc trách”. Bồ tát chân thật nhất định tự hổ thẹn, trách cứ chính mình tu chưa được tốt nên mới kéo theo những chúng sanh chịu tội chịu khổ, làm cho thế gian có nhiều tai biến đến thế. Phải trách cứ chính mình, phải nỗ lực chăm chỉ gia công tu hành, cho nên sự hối trách này là một động lực rất lớn đối với bản thân, thúc đẩy chính mình dõng mãnh tinh tấn, đoạn ác tu thiện. Người thế gian làm việc cần lao với động lực danh lợi thúc đẩy, bạn có thể kiếm được rất nhiều tiền, vì món tiền đó mà liều mạng, đến khi kinh tế suy thoái, tiền lập tức bị thâm hụt. Gian nan khổ cực kiếm được nhiều, bỗng chốc không còn. Tuy nhiên nếu phát ra tâm Bồ Đề, vì xã hội, vì đại chúngnỗ lực làm việc, thì họ vĩnh viễn sẽ không bị hao hụt, mãi mãi tinh tấn, mãi mãi hướng lên trên, chân thật tích đại công đại đức, quả báo thù thắng không thể nghĩ bàn. Những sự cùng lý này, chúng ta đều phải rõ ràng tường tận, nhất định khi xem thấy hiện tượng bên ngoài, chính mình phải sanh tâm hổ thẹn, phải trách cứ chính mình.

Thứ ba, Phật nhắc nhở chúng taác đạo đáng sợ”. Đó là ba đường ác mà kinh đã nói, đường ác dễ bước vào, khó bước ra. Ba đường ác do nguyên nhân nào mà hình thành? Phật nói với chúng ta, đường ngạ quỷ do lòng tham, tâm tham nặng đọa vào đường ngạ quỷ; đường địa ngục do tâm sân hận; đường súc sanh do tâm ngu si. Tâm ngu si là đối với tà chánh, thật giả, thiện ác, lợi hại đều không rõ ràng, mơ mơ hồ hồ, đó là ngu si. Thế gian này người tốt người xấu đều không phân rõ ràng, việc tốt việc xấu cũng không tường tận, luôn làm những việc điên đảo, quả báo sẽ ở đường súc sanh. Một số vị cho rằng, đường súc sanh dường như tuổi thọ ngắn, lo gì không dễ dàng thoát khỏi đường súc sanh. Thực ra, đường súc sanh có một số loài tuổi thọ ngắn nhưng cũng có loài tuổi thọ rất dài. Cho dù tuổi thọ ngắn, họ cũng không dễ gì thoát khỏi. Súc sanh ngu si nên nó chấp trước cái thân tướng đó chính là nó, sau khi chết vẫn trở lại súc sanh, rất khó đi đến được đường khác để thọ sanh. Việc này sẽ rất phiền phức, thí dụ trên kinh Phật kể một câu chuyện.

Năm xưa khi Thích Ca Mâu Ni Phật còn tại thế, Kỳ Viên Tịnh Xá có một ít công trình, khi thi công thấy dưới đất có một ổ kiến. Đức Phật thấy liền mỉm cười, các học trò đi theo Phật liền hỏi: “Vì sao ngài mỉm cười những con kiến này?” Phật liền trả lời: “Đàn kiến ngu si, bảy vị Phật xuất thế mà nó vẫn chưa thoát khỏi thân kiến”. Một vị Phật xuất thế mất đến ba a tăng kỳ kiếp, huống hồ bảy vị Phật xuất thế, hai mươi mốt a tăng kỳ kiếp, mà nó vẫn còn làm kiến, khi kiến chết rồi đầu thai lại vẫn làm kiến, đời đời kiếp kiếp làm kiến, không thể thay đổi một thân khác. Cho nên đường súc sanh cũng không dễ gì thoát khỏi thân súc sanh.

Tuổi thọ của đường ngạ quỷ dài, kinh Phật nói, một ngày trong cõi quỷ bằng một tháng ở nhân gian chúng ta. Tuổi thọ của cõi quỷ cũng giống như nhân gian chúng ta vậy. Một năm ba trăm sáu mươi ngày, mười hai tháng, thế nhưng phải ghi nhớ một ngày của họ là một tháng của nhân gian chúng ta. Tuổi thọ của họ, đoạn mạng cũng phải mất một ngàn tuổi, mạng dài đến ngàn ngàn tuổi, có đáng sợ không? Bạn đọa vào đường ngạ quỷ thì lúc nào mới có thể ra được. Nếu tính cũng phải đến mấy vạn năm sau bạn mới có thể thoát ra. Những ngày tháng đó thật khốn khổ. Trong cõi quỷ không nhìn thấy mặt trời. Mặt trời, trăng sao, ba ánh sáng này đều không nhìn thấy, bầu trời luôn một màu tối đen. Chúng ta mấy ngày không nhìn thấy mặt trời đã cảm thấy rất khó chịu, huống hồ ở trong cõi quỷ phải chịu mấy vạn năm không nhìn thấy mặt trời, nghĩ thử xem những ngày tháng đó có khổ không? Đời sống cõi quỷ rất khủng khiếp. Cho nên trong ba đường, cõi quỷ gọi là đao đồ, đường súc sanh gọi là huyết đồ. Súc sanh chết đều ăn không ngon, đều máu chảy ăn nuốt lẫn nhau, súc sanh không được chết yên, con lớn ăn con nhỏ. Còn cõi quỷ vì sao gọi là đao đồ? Đao là thường hay có người đến giết hại, thân tâm của họ thường bất an, luôn sống trong khủng khiếp. Địa ngục gọi là hỏa đồ, một biển lửa. Kinh Phật có nhiều cách nói khác nhau về tuổi thọ của địa ngục nhưng tuyệt nhiên không phải Phật nói sai. Sở dĩ khác biệt của tuổi thọ lớn là bởi vì chủng loại địa ngục không như nhau, có một số tuổi thọ trong địa ngục rất dài nhưng cũng có một số chịu khổ trong địa ngục tương đối nhẹ nên tuổi thọ ngắn hơn một chút.

Vậy chúng ta căn cứ trên kinh để biết trong đường địa ngục, một ngày bằng hai ngàn bảy trăm năm ở nhân gian. Đất nước chúng ta ở được gọi là nước văn minh cổ xưa có lịch sử năm ngàn năm, nhưng đối với địa ngục vẫn chưa đến hai ngày. Kinh Phật nói, địa ngục cũng được tính là một năm ba trăm sáu mươi ngày, nhưng một ngày của họ dài hơn hai ngàn bảy trăm năm chúng ta. Yểu mạng của họ cũng một vạn tuổi, trường thọ thì đến vạn vạn tuổi, rất khủng khiếp. Cho nên mỗi giờ mỗi phút nhất định phải đề cao cảnh giác, không nên tạo nghiệp địa ngục, nghiệp của ba đường càng không thể tạo. Phật nói trong mười ác nghiệp, nghiêm trọng nhất chính là đọa địa ngục, kế đến đọa ngạ quỷ, nhẹ nhất là đến súc sanh.

Mười ác nghiệp, thân đã tạo ra sát sanh, trộm cắp, tà dâm; miệng tạo ra nói dối, nói hai chiều, nói thêu dệt bằng lời ngon ngọt mê hoặc lòng người, nói thô lỗ; ý nghiệp tham sân si. Giả như mỗi ngày tạo mười loại nghiệp này thì tiền đồ của bạn không cần đi hỏi người khác, nhất định đến ba đường ác. Cho nên càng nghĩ càng đáng sợ, chúng ta nhất định không làm việc này, không những chúng ta không chịu đọa ba đường ác mà ba đường thiện trong sáu cõi, chúng ta cũng không cần, vì sao? Vì không cứu cánh. Bạn muốn tu nhân thiên phước báu, đời sau được thân người lại hưởng phước, người hưởng phước hiếm ai có đầu óc tỉnh táo, hiếm người không mê hoặc, vậy thì phước của bạn hưởng hết. Thế gian này người có phước báu rất nhiều, chúng ta cũng có lúc có cơ hội gặp được. Họ hưởng phước tạo tội nghiệp, muốn giúp họ mà không thể giúp. Bạn có khuyên lơn, họ cũng bỏ ngoài tai, không nghe, căn bản không muốn bạn nói thêm nữa, vậy thì không còn cách nào. Họ vẫn tùy theo tập khí, tùy theo nghiệp chướng của họ, trải qua đời sống cuồng vọng tham dục, tiêu hao hết sạch phước báu của đời quá khứ đã tu được. Sau đó đến ba đường ác để đối chất. Chỉ như vậy, chúng ta xem thấy thật đáng thương nhưng không cách gì cứu, cho nên nhất định phải thường giữ tâm “Khiếp sợ đường ác”.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19733)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23988)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41240)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19719)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24030)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21754)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23328)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27517)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26583)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29337)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33228)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20213)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25799)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20943)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31351)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38608)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21463)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44296)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29850)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42245)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22151)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45800)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32141)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23985)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24412)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29297)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33944)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27702)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32174)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21093)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28877)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21615)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28110)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22091)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21458)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19534)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19491)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19849)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19280)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29224)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20637)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28316)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23664)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33217)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31869)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21411)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39660)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21583)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19401)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26424)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24846)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21761)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22412)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29159)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22581)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20481)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23552)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21250)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35360)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24565)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant