Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 20

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10388)
Phần 20


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 20)

 

Pháp Sư Tịnh Không


Nguyện thứ năm, “Tùy hỷ công đức”

Trước tiên phải nhận biếtcông đức” là gì. Chỗ này không thể hàm hồ được. Chúng ta thấy tại rất nhiều đạo tràng có một thùng bên trên viết “Thùng công đức”, liền cho rằng mình chỉ cần để tiền vào đó sẽ có công đức. Vậy là sai, không hề có công đức nào cả. Lương Võ Đế trong lịch sử Trung Quốc nổi tiếng là một Phật giáo đồ kiên thành, là đại hộ pháp của nhà Phật. Khi còn đương chức, ông đã tạo dựng bốn trăm tám mươi đạo tràng, ngày nay chúng ta gọi là tự viện, quy mô đều rất lớn. Ông luôn khích lệ nhân dân xuất gia, xem thấy người xuất gia thì rất hoan hỉ. Cho nên ông độ chúng mấy trăm ngàn người, chính ông cũng cảm thấy kiêu ngạo khi làm được công đức lớn như vậy. Lúc này, Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư thiền tông, đến Trung Quốc. Ngài nghe nói quốc vương của Trung Quốc nhiệt tâm hộ pháp nên đương nhiên phải bái kiến. Lương Võ Đế cũng rất vui mừng tiếp kiến vị cao tăng từ Ấn Độ. Khi gặp mặt, Lương Võ Đế kể với Đạt Ma tổ sư về công đức hộ pháp của mình. Sau khi nói xong, ông thỉnh giáo Đạt Ma tổ sư: “Công đức của tôi có lớn không?”. Đạt Ma tổ sư thành thật trả lời: “Không có công đức”. Lương Võ Đế nghe rồi, lòng rất không vui. Sau đó Lương Võ Đế không hộ pháp ông, làm cho ông phải đến chùa Thiếu Lâm quay mặt vào vách chín năm, để đời một Huệ Khả.

Lời của Đạt Ma tổ sư có đúng không? Đúng. Công đức cùng phước đức không như nhau. Giả như Lương Võ Đế hỏi: “Phước đức của tôi có lớn không?”, thì Đạt Ma tổ sư nhất định trả lời: “Thật lớn! thật lớn! Ông tu phước báu thật quá lớn”. Phước đức cùng công đức rõ ràng có khác biệt. Công đức phải do chính mình tu hành. Chúng ta nêu một thí dụ đơn giản, trì giới có công, cái công mà bạn trì giớicông phu, bạn trì giớicông phu. Được định chính là đức. Cho nên công là tu nhân, đức là chứng quả, bạn được định mới gọi là công đức. Nếu bạn giữ giới luật rất tốt, rất nghiêm, nhưng không thể được định, thì trì giới của bạn chỉ là phước, không phải công. Bạn trì giới chưa có công phu thì chỉ có được phước báu. Nhân giới quả định thì giới luật này mới gọi là có công phu.

Vì sao có người trì giới được định, còn một số người trì giới không thể được định? Do đúng pháp hay không đúng pháp. Tu học đúng pháp có công, tu học không đúng pháp không có công. Điểm này các vị đồng tu, không luận tại gia xuất gia, đều phải tường tận. Vì vậy nhất định phải thủ pháp, vì thủ pháp mới tương ưng.

Lục tổ Đại sư Huệ Năng đặc biệt dạy người trì giới, một mực dặn bảo chúng taNếu là người chân chánh tu hành thì không thấy lỗi thế gian”. Giới luật của ta trì rất tốt, xem thấy người khác không trì giới liền sanh tâm khinh mạn, xem thường, còn chính mình lại cống cao ngã mạn. Trì giới như thế được kết quả gì? Người ta trì giới thì được định, từ định khai huệ; ta trì giới ra cống cao ngã mạn thì làm gì có được công phu.

Thế nhưng sự trì giới đó có tốt không? Tốt. Sự trì giới đó mang lại phước đức, chính là tu phước hữu lậu trong tam giới sáu đường. Tôi không nói phước báu nhân thiên, tôi nói phước báu hữu lậu trong sáu đường. Vì sao? Dù họ không được thân người mà chỉ được thân súc sanh, thân ngạ quỷ thì cũng đều hưởng phước. Bạn thấy đường súc sanh, nếu có phước báu lớn vẫn được cưng chiều chăm sóc chu đáo, con người chúng ta làm sao có thể sánh bằng. Có những con vật cưng được người cả nhà hầu hạ, xem nó như bảo bối, trong khi chúng ta thì chẳng ai quan tâm. Loại súc sanh đó đời trước đã từng tu phước nên mới được như vậy.

Phước báu trong cõi quỷ cũng không nhỏ. Chúng ta xem thấy rất nhiều ở nhân gian Trung Quốc cúng bái những quỷ thần này. Cạnh Cư Sĩ Lâm dường như có một cái miếu Đại Bá Công, đó chính là cõi quỷ có phước báu. Sơn thần, thổ địa, thành hoàng đều là cõi ngạ quỷ đã tu phước nên ở trong cõi quỷ hưởng phước.

Cho nên Phật dạy chúng ta nhất định phải tu tích công đức. Trong công đức tự nhiênphước đức. Trong phước đức không có công đức. Công đức phải tu bằng cách nào? Kinh này đích thực là đệ nhất kinh mà Thế Tôn đã nói suốt bốn mươi chín năm. Kinh Hoa Nghiêm vẫn là hàng kế sau kinh này. Đề kinh nêu rõ: “Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác”, hay nói cách khác, việc tu học của chúng ta phải tương ưng với “Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác”, đó chính là công đức. Chúng ta trì giới, ngay trong giới được tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, thì giới của chúng ta liền có công. Tâm thanh tịnh là định, tu định có công, khai trí tuệ chính là đức. Tu định nếu không thể khai trí tuệ thì cái định đó chỉ là phước báu. Thế nhưng các vị nên biết, phước của định cùng phước của giới không như nhau. Phước của định lớn hơn rất nhiều.

Phước của giới trong ba đường đều được hưởng, chỉ có địa ngục không được hưởng. Còn phước của định thì không ở ác đạo, chí ít phải từ trời Dạ Ma trở lên. Bạn tu định, trong định không thể khai trí tuệ, thì phước báu từ trời Dạ Ma mãi đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ đều là phước báu của định. Đó là tu định mà được phước báu, không phải công đức. Tu định muốn được công đức phải khai trí tuệ. Khai trí tuệ chắc chắn siêu việt tam giới, vĩnh thoát luân hồi, đó là tu định có công. Cho nên chúng ta phải hiểu công đức một cách rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo.

Chúng ta xem thấy người ta tu tích công đức thường khởi lên ý niệm đố kỵ; thấy người khác tốt hơn mình liền khó chịu, bực bội, nghĩ mọi cách chướng ngại, thậm chí còn nghĩ cách phá hoại, tội lỗi này rất lớn.

Bồ Tát tu tích công đức

Bồ tát thị hiện ngay trong quần chúng xã hội, nam nữ già trẻ. Việc họ làm chúng ta thường gọi là việc từ thiện xã hội. Thế nhưng Bồ tát cùng người thế gian chúng ta làm việc từ thiện xã hội lại có chút khác biệt. Các vị tỉ mỉ quan sát mới có thể thấu hiểu. Bồ tát tu tích làm những việc từ thiện, sau cùng nhất định còn giúp họ phá mê khai ngộ, đó chính là đã làm công đức. Nếu chỉ làm việc từ thiện xã hội, không dạy họ phá mê khai ngộ, thì là thuộc về phước đức.

Vì sao đối với chúng sanh, trước tiên phải dùng từ thiện cứu tế để giúp đỡ? Đó là Tứ Nhiếp pháp, một phương tiện nhiếp thọ chúng sanh của Phật. Trên kinh, Phật cũng tường tận dạy chúng ta “Tiên dĩ lợi dục câu, hậu linh nhập Phật trí”. Bạn thấy Phật thật từ bi đến tột đỉnh. Bạn cứ thử bảo người thế gian đến học Phật, họ sẽ lắc đầu không đến; nhưng bạn mời họ đến ăn cơm thì họ rất vui mừng lập tức liền nhận lời. Ăn cơm xong bạn mới bảo họ học Phật, như thế dễ dàng hơn, vì đã nhận ân huệ rồi, không nghe sẽ rất khó coi. Cho nên nhà Phật dùng loại từ thiện này: bố thí, ái ngữ, đồng sự, lợi hành đều là để nhiếp thọ chúng sanh. Sau đó nói rõ cho họ chân tướng của vũ trụ nhân sanh, chân tướng chính chúng ta cùng hoàn cảnh sinh hoạt của mình. Khi hiểu rõ chân tướng thì họ sẽ quay đầu là bờ.

Nếu chấp tướng mà làm, như thế vẫn là tu phước. Còn nếu rời tướng, không chấp tướng, tam luân thể không, đó là lấy lợi ích chúng sanh làm công đức. Do nhân giới được định, là công đức tu học của chính mình. Hai loại công đức này đều sẽ bị người đố kỵ, chướng ngại. Cho nên khi chúng ta tu tích phải có trí tuệ cao độ, phải có phương tiện khéo léo. Địa vị của chúng ta càng thấp càng tốt, đối đãi với bất cứ người nào cho dù là người phê bình, hủy báng, phá hoại chúng ta, chúng ta cũng phải dùng tâm chân thành cung kính đối đãi với họ, làm cho họ dần dần cảm động, có thể giác ngộ quay đầu. Chúng ta đem những ác duyên chuyển biến thành thiện duyên, đem những việc ác chuyển thành công đức chân thật, đó gọi là tùy hỉ. Chúng ta nhất định phải làm từ chính bản thân mình; trở thành tấm gương tốt mới có thể giáo hóa chúng sanh.

Ngày nay trên toàn thế giới, ở bất cứ nơi nào hoằng dương Phật pháp, chúng ta đều có một tổng mục tiêu, tổng phương hướng, “Học vi nhân sư, hành vi thế phạm”. Cả thảy Phật pháp Đại thừa đều không ngoài hai câu này. Sư là gương mẫu, tuyệt nhiên không phải nói về người xuất gia. Mỗi vị đồng tu tại gia đều phải tác sư, tác phạm. Ngay trong cương vị công tác hiện tại, ngay trong đời sống hiện tiền phải làm tấm gương tốt cho đại chúng, đó chính là tác sư tác phạm. Chư Phật Bồ tát là tấm gương tốt nhất cho tất cả chúng sanh chín pháp giới. Chúng ta phải hiểu được ý này.

Ngày trước tôi đã nói qua, có người hỏi tôi, cha mẹ hiện tại rất khó quản giáo con cái. Con cái không nghe lời cha mẹ, học trò không nghe lời thầy giáo, công nhân không nghe lời ông chủ, đó là một vấn đề nghiêm trọng trong xã hội. Toàn thế giới có rất nhiều nhà lãnh đạo thông minh, rất nhiều nhà học thuật, các lãnh đạo tôn giáo đều đang tìm cầu phương pháp giải quyết vấn đề xã hội ngày nay. Rốt cuộc lỗi lầm do đâu? Năm trước, tôi đến Đại học Sư Phạm Bắc Kinh, xem thấy trong trường học có đề tám chữ: “Học vi nhân sư, thân vi thế phạm”, vì thời gian ở trường không lâu nên lúc tiếp đón, tôi đã nói qua. Cổ thánh tiên hiền Trung Quốc dạy bảo chúng tatác thân, tác quân, tác sư”, cho nên khi tôi xem thấy tám chữ này liền liên tưởng đến. Nhà Nho giáo huấn chúng tatác chi quân, tác chi thân, tác chi sư”, chúng ta không thể hiểu bằng nghĩa hẹp. Với câu nói này, nghĩ rằng Khổng Tử kỳ vọng người lãnh đạo quốc gia, không liên quan đến dân chúng thông thường như chúng ta, vậy thì sai. Giáo học của Nho và Phật dành cho tất cả chúng sanh, không phân giai cấp, nam nữ, già trẻ; cũng không phân nghề nghiệp.

Quân là gì? Là người lãnh đạo tốt, nhân từ; đối với cấp dưới mình phải chân thành quan tâm, chân thành thương yêu, chân thành chỉ đạo họ. Bạn là người lãnh đạo tốt, đồng thời phải là người thân. Dùng cái tâm của cha mẹ thương yêu cấp dưới. Trung Quốc thời xưa, thủ trưởng chính phủ địa phương gọi là quan phụ mẫu. Hiện tại làm quan, thời đại dân chủ gọi là người đầy tớ của dân. Bá tánh là chủ, quan là người hầu. Quan hệ chủ bộc, người hầu có lúc cũng gạt chủ. Cách gọi này không thể hiện được sự chân thật hiếu trung với bạn. Nhưng cha mẹ thương yêu con cái thì không hề có điều kiện. Cho nên chúng ta vẫn hy vọng người làm quan là cha mẹ của chúng ta, không nên là người hầu trong nhà chúng ta. Người hầu thật không đáng tin, cha mẹ vẫn đáng tin hơn nhiều so với người hầu. Lãnh đạo phải làm người thân, mang cái tâm của cha mẹ. Ngoài ra còn phải mang cái tâm của thầy giáo thương yêu học trò.

Không luận thân phận ngày nay của chúng ta như thế nào, dù là một công nhân cấp thấp cũng phải làm được ba điều kiện này. Tuy không có chức vụ, không có địa vị cũng phải có ba loại tâm này để làm sức ảnh hưởng đến đồng liêu đồng sự của chính chúng ta, ảnh hưởng đến bạn bè, người quen, sau đó mở rộng ảnh hưởng xã hội, người người đều có thể phát tâmtác thân, tác sư, tác quân”, đây gọi là chân thật tùy hỉ công đức. Lợi ích cho người, việc công đức lợi ích đó làm gì có chướng ngại? Không những không có chướng ngại, mà còn quyết tâm toàn lực tán thán giúp đỡ đại chúng xã hội cùng nhau phát triển, mang đến xã hội lợi ích chân thật.

Việc thiện ác thế gian quá nhiều, vì sao Phật đặc biệt nêu ra “tuỳ hỷ công đức”? Vì Phật biết phiền não tập khí của tất cả chúng sanh tích lũy từ vô lượng kiếp. Mỗi một chúng sanh đều có tập khí tham sân si mạn từ lúc mới sinh, không cần người dạy. Bạn cứ tỉ mỉ mà quan sát trẻ nhỏ. Trẻ thơ mấy tháng tuổi chưa biết nói, đặt hai đứa trẻ bằng tuổi cạnh nhau. Một đứa trẻ có kẹo ăn, đứa kia không có, tâm đố kỵ liền nổi lên, chúng liền tranh giành lẫn nhau. Bạn xem ai dạy chúng. Tùy hỷ công đức chính là đối trị tâm ngạo mạn, đố kỵ, mà đặc biệtđố kỵ. Đố kỵ ngạo mạn tạo tội nghiệp cực trọng, nhưng nếu giữa khoảng một niệm chuyển đổi, liền biến thành vô lượng công đức. Phật cùng phàm phu khác biệt ở chỗ này. Chúng sanh thì không thể chuyển được, tùy theo phiền não trôi lăn trong sanh tử sáu cõi. Còn chư Phật Bồ tát trong khoảng một niệm chuyển đổi, thành tựu vô lượng vô biên công đức. Cho nên chúng ta phải học cách chuyển, chuyển được rất mau. Sau khi chuyển rồi, người ta tu tích công đức bao lớn thì bạn tuỳ hỉ công đức bấy nhiêu, nhất định không khác biệt. Tuyệt đối không thể nói con người này tu tích công đức thì công đức của họ lớn, ta tùy hỉ nên công đức nhỏ. Không hề có việc như vậy.

Người ta tu tích thật khổ sở, bạn vừa tùy hỉ thì công đức cũng lớn như họ. Vậy bạn thấy bạn chiếm được bao nhiêu lợi ích? Phật dạy chúng ta đem công đức của A Di Đà Phật chuyển biến thành công đức của chính mình. Cách chuyển thế nào? Y theo bộ kinh này mà tu học. Phật dạy chúng ta thọ trì, đọc tụng, vì người diễn nói. Bạn chỉ cần làm được ba câu này thì liền chuyển công đức từ vô lượng kiếp của Phật A Di Đà thành công đức của chính mình. Ngay trong lúc giảng dạy chúng ta cũng thường nói, đồng tâm, đồng nguyện, đồng đức, đồng hạnh với Phật A Di Đà Phật thì công đức của Ngài chuyển biến thành công đức của chính mình, đó mới là người thông minh bậc nhất. Nếu bạn tu hành công đức của Phật A Di Đà mà chỉ dựa vào chính mình thì bạn phải tu đến kiếp nào? Chúng ta ở mấy mươi năm ngắn ngủi của cuộc đời, chỉ cần hiểu đạo lý, hiểu được phương pháp này, tu hành mấy mươi năm bằng Phật A Di Đà tu hành vô lượng kiếp. Kinh Hoa Nghiêm nói “niệm kiếp viên dung”, chúng ta chân thật có thể làm đến. Cho nên các vị không được xem thường bỏ lỡ cơ hội, nhất định phải nắm lấy cơ hội này, ngay một đời thành tựu công đức cứu cánh viên mãn.

Cư sĩ Lý Mộc Nguyên xây dựng đạo tràng, mời pháp sư đã tốn biết bao hơi sức. Đó là công đức của ông ấy. Hôm nay chúng ta đến đây tùy hỷ, vậy công đức viên mãn của ông ấy, chúng ta thảy đều có được. Bạn giới thiệu bạn bè thân thích đến đây nghe kinh, cũng chính là bạn lợi dụng cái đạo tràng, lợi dụng cơ duyên này của cư sĩ Lý Mộc Nguyên mà độ được mấy người làm Phật, bạn nói xem công đức của bạn lớn hay không? Họ ngay một đời có thể y giáo tu hành, có thể vãng sanh hay không, đó lại là chuyện khác, không hề gì, chỉ cần họ đến đạo tràng, thấy được Phật tượng, nghe một hai câu kinh văn, “một khi nghe qua tai, mãi đã trồng thiện căn”. Hạt giống kim cang vĩnh viễn không hư hoại, sẽ có ngày gặp được duyên khởi hiện hành, tương lai họ niệm Phật sẽ vãng sanh làm Phật.

Nguyện thứ sáu, “Thỉnh chuyển pháp luân”

Rất nhiều đồng tu sâu sắc cảm nhận nghiệp chướng của mình sâu nặng, tai nạn liên tiếp. Không người nào không nghĩ cách để tiêu nghiệp chướng? làm thế nào tránh khỏi những tai nạn? Thế là đến cửa Phật, miếu thần thắp hương lễ bái, mong cầu Phật và thần minh bảo hộ. Có thể cầu được hay không? Chúng ta phải bình lặng quan sát. Có mấy người cầu được? Dù cầu không được, người ta vẫn đến cầu tấp nập không ngớt. Thậm chí biết rõ ràng cầu không được nhưng vẫn đi mong cầu, còn tốt hơn không cầu. Họ cứ khư khư ôm tâm lý cầu may.

Lời của Phật nói không vọng ngữ, rằng “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”, đó là sự thật không phải giả, có cầu ắt có ứng. Bạn thấy cầu làm Phật đều có thể đạt đến được, đây là việc khó nhất của thế xuất thế gian. Làm Phật mà còn được thì những thứ khác chỉ là chuyện không đáng kể, có thứ nào mà cầu không được. Thế nhưng Phật dạy chúng ta cầu là dạy chúng ta như lý như pháp mà cầu, bạn mới có thể đạt được. Cái mong cầu của bạn phải hợp lý hợp pháp. Nếu không hợp lý, không hợp pháp, bạn nhất định không cầu được. Pháp tắc của nhân quả chính là điều Phật dạy chúng ta. Bạn phải tu nhân, sau đó quả báo mới hiện tiền. Thỉnh chuyển pháp luân để hóa giải những quan điểm này.

Việc diễn giảng của chúng ta không chỉ có những thính chúng ngồi đây. Người ngồi trước màn hình tivi không biết bao nhiêu, bởi vì những băng ghi hình này đều được mang đến đài truyền hình vệ tinh để phát sóng. Đài truyền hình yêu cầu nội dung ghi hình của chúng ta phải đẹp. Họ đã nói qua với tôi rất nhiều lần, phải tìm chuyên gia nghệ thuật vẽ những bối cảnh màn hình. Tôi nghĩ phía sau chúng ta chỉ để một ít cây cối hoa cỏ, cảnh như vậy chẳng phải quá tốt hay sao. Sáng hôm nay, tôi đến tiệm bán hoa xem và chọn mấy loại cây này. Ý nghĩa biểu pháp của cây rất sâu. Thọ là kiến thọ, kiến lập. Thọ lập đạo tràng, thọ lập Phật pháp, thọ lập nhân sanh vũ trụ quan. Hoa, tôi đặc biệt chọn quốc hoa của Singapore. Quả, tôi chọn thạch lựu. Thạch lựu tốt, nhiều hạt, đều là biểu pháp. Có cây, có hoa, có quả, phía sau treo bức các ngôi sao một cách tình cờ. Rất tốt. Có Phật, có kinh sách, đầy đủ Tam Bảo, chúng ta không cần phải tốn nhiều hơi sức, phải nhờ người đến vẽ bối cảnh. Người bán hoa cũng rất nhiệt tình, mỗi tuần họ sẽ đổi một lần trong khoảng năm năm. Khi máy lạnh thổi đến, những cây lá này còn có thể động, sinh động hơn nhiều so với tranh sơn dầu.

Mắt thường chúng ta không thấy được thính chúng, không biết được có bao nhiêu. Khi phát sóng ở Hoa Kỳ, đồng tu ở Hoa Kỳ nói với tôi, có đến hai mươi ngàn người bắt tín hiệu xem. Con số này không ngừng tăng thêm. Cho nên đài truyền hình yêu cầu chúng ta dùng máy móc tối tân để phát ra dữ liệu đẹp nhất. Mọi thứ chúng ta đều đáp ứng, hy vọng làm đến được tiêu chuẩn của họ. Lầu năm hiện tại đang lắp đặt, bốn mặt đều cách âm, dưới nền lót thảm. Lý cư sĩ luôn hy vọng mỗi một đồng tu đến giảng đường ngồi hai giờ đồng hồ để hưởng thụ, để thư thích thoải máithảo luận Phật phápgiảng kinh.

Tóm lại, “Thỉnh chuyển pháp luân” là phương pháp tiêu tai giải nạn thù thắng nhất. Làm bất cứ công đức nào để tiêu tai khỏi nạn đều không bằng mời pháp sư giảng kinh, diễn nói Phật pháp. Người nghe sanh tâm hoan hỉ, sanh tâm giác ngộ. Giác ngộ rồi, tai nạn mới chân thật có thể tiêu trừ. Bất giác thì liền có tai nạn. Nghiệp chướng tai nạn từ đâu mà ra? từ mê hoặc, điên đảo mà ra; từ tư tưởng sai lầm, kiến giải sai lầm, hành vi sai lầm của chúng ta phát sanh ra. Cho nên bạn phải đem ý niệm chuyển đổi lại thành chánh tri chánh kiến thì nghiệp chướng tai nạn từ vô thỉ kiếp đều có thể hoá giải được, có như vậy công đứcthỉnh chuyển pháp luân” sẽ rất lớn, ý nghĩa rất sâu. Nếu một mình không đủ sức thỉnh pháp sư giảng kinh, chúng ta có thể liên kết một số đồng tu tập hợp lực lượng, mọi người cùng nhau thỉnh, thì công đức đều như nhau, đều thù thắng không gì bằng. Giảng kinh thuyết pháp ảnh hưởng càng lớn, công đức cũng sẽ càng lớn theo; ảnh hưởng càng sâu, công đức cũng càng sâu.

Ngày nay ở trong xã hội, mỗi một khu vực, đô thị, hương trấn, có rất nhiều người cư ngụ đều xem Phật giáo thành tôn giáo, đó là một hiểu lầm to lớn. Chúng ta cùng đại chúng, đặc biệt đối với những người vừa tiếp xúc Phật pháp, trước tiên phải chỉnh sửa quan niệm sai lầm này, sau đó mới có thể giới thiệu Phật pháp cho họ. Nếu không chỉnh sửa thì khi bạn vừa mở đầu đã sai, sau đó tiếp tục sai đến cùng. Việc này chúng ta không thể không biết. Cho nên chuyển đổi sai lầm của mọi ngườicông đức vô biên, chúng ta nhất định phải suy nghĩ đến sức ảnh hưởng sâu rộng của nó. Nơi nào có được sự ảnh hưởng lớn? Đạo tràng trong nhà Phật, thính chúng càng nhiều thì sức ảnh hưởng của những quan niệm sai lầm càng không còn đủ mạnh.

Nơi nơi vì Phật pháp mà nghĩ, vì tất cả chúng sanh mà lo, tâm lượng của chúng ta sẽ lớn. Thế Tôn đặc biệtchúng ta hiển thị trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh. Một tuần nữa chúng ta sẽ khởi giảng bộ kinh này. Kinh này không phải giảng cho hàng Bồ tát, mặc dù tham dự pháp hội Hoa Nghiêm là bốn mươi mốt vị pháp thân đại sĩ, hay nói cách khác không phải là chúng sanh trong mười pháp giới, thậm chí không phải hàng Phật Bồ tát trong mười pháp giới. Phật trong mười pháp giới, nếu theo cách nói của Thiên Thai, là Phật của tạng giáo, Phật của thông giáo, không hề ra khỏi mười pháp giới. Viên giáo, biệt giáo siêu việt cũng không vì Bồ tát, không vì thanh văn duyên giác mà giảng, vậy vì ai? Vì phàm phu và vì chúng sanh.

Chúng taphàm phu, là chúng sanh nên chúng ta có phần. Tuy nhiên phải đáp ứng một điều kiện, đó là đại tâm phàm phu. Phàm phu tâm lượng không được nhỏ mà phải lớn. Lớn đến mức nào? Đương nhiên tốt nhất phải lớn y như Phật, tâm Phật trùm hư không lượng khắp pháp giới. Nếu chúng tatâm lượng lớn như vậy, thì kinh Hoa Nghiêm vừa tiếp xúc liền được viên mãn, chân thật không chút kém khuyết nào. Kinh Hoa Nghiêm dạy đại tâm phàm phu hiện tiền trải qua đời sống của Phật Bồ Tát, một đời sống cứu cánh viên mãn, cũng chính là ba loại chân thậtkinh Vô Lượng Thọ đã nói: “chân thật chi tế”, “trụ chân thật huệ”, “huệ dĩ chân thật chi lợi”. Ba loại chân thật hiện tiền liền đối hiện không phải đợi đến lúc nào, đó mới là lợi ích chân thật.

Do đây có thể biết, mời pháp sư giảng kinh là việc vô cùng quan trọng. Xã hội ngày nay, vì mọi người không nhận biết Phật pháp, không hiểu rõ Phật pháp, cho rằng có rất nhiều loại kinh sám Phật sự có thể giúp tiêu tai khỏi nạn, đó là hiểu lầm nghiêm trọng. Những kinh sám nghi thức của nhà Phật liệu có hiệu quả hay không? Có, thế nhưng bạn phải hiểu biết ý nghĩa của nó mới có thể nhận được hiệu quả. Không hiểu được ý nghĩa của nó thì chỉ trên hình thức chứ không nhận được hiệu quả gì. Y theo hình thức để làm thì không được. Ví dụ thiền tông, những tổ sư đại đức ngày trước thật cao minh, khi người học đến tham cứu, thỉnh giáo, lão hoà thượng không nói câu nào, chỉ đưa ra một ngón tay. Người đến học vừa nhìn thấy liền khai ngộ, chứng quả. Hiện nay, nếu người khác đến hỏi, chúng ta đưa ra một ngón tay có được không? Họ có thể khai ngộ không? Không những không khai ngộ mà còn mê hoặc điên đảo. Cho nên không thể chỉ có động tác, mà phải xem họ thuộc loại người nào.

Ngày trước, nghi quy của họ có hiệu quả, hiện tại chúng ta chiếu theo những nghi quy này thì không hiệu quả. Cho nên tịnh tông chúng ta trong nghi quy Phật sự chỉ đề xướng hai thời khóa tụng sớm tối, khóa Phật thất, cùng tam thời hệ niệm. Làm tam thời hệ niệm, trước tiên phải tỉ mỉ giảng qua một lần. Lạy Lương Hoàng Sám tốt nhất cũng phải giảng tỉ mỉ Lương Hoàng Sám một lần. Người tham gia đều phải nỗ lực đến nghe, sau đó ở trong nghi thức mà tùy văn nhập quán. Bạn không biết chút gì với nghi thức thì không được, như thế chẳng khác nào vẽ hồ lô, dù vẽ có giống đến đâu cũng không có nội hàm. Cho nên nhất định phải thỉnh pháp sư giảng kinh, đó mới là chân thật tiêu nghiệp chướng, chân thật miễn trừ tất cả tai nạn.

Thực tế không thỉnh được pháp sư giảng kinh thì vẫn còn một phương pháp, niệm Phật. Tìm mấy người chí đồng đạo hợp, nhiều ít không quan trọng. Chúng ta tìm một kỳ nghỉ để mọi người đều có thời gian, sau đó tìm nơi chốn thanh tịnh có thể niệm một ngày một đêm, hai ngày hai đêm, hoặc đến mười ngày. Công đức đó chân thậtvô lượng vô biên, có hiệu quả hơn bất cứ sám nghi nào. Không nên cho rằng, một câu Phật hiệu dễ niệm thì làm gì có công đức. Thực chất, Phật hiệu công đức không thể nghĩ bàn.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19710)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23970)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41222)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19704)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24001)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21748)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23315)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27510)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26578)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29321)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33204)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20209)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25787)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20920)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31330)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38584)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21449)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44266)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29835)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42224)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22145)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45774)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32125)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23963)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24396)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29285)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33929)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27688)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32141)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21068)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28857)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21591)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28072)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22080)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21444)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19506)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19477)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19840)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19262)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29199)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20627)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28305)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23651)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33196)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31846)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21380)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39634)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21564)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19384)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26405)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24836)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21760)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22398)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29138)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22561)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23530)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21242)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35333)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24548)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant