Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8. Mật Tôn

23 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 9353)
8. Mật Tôn

MẬT TÔN

I.- DUYÊN KHỞI LẬP TÔN

 Tôn này nương theo chơn ngôn mầu nhiệm làm tôn chỉ, cho nên gọi là Mật tôn, cũng gọi là Chơn ngôn tôn; lấy đức Đại Nhật Như lai (Tỳ-lô-giá-na) làm giáo chủ bí mật, ngài Kim Cang Bồ-tát thân chịu cái chức vị quán đãnh, kế thừa pháp mầu nhiệm, của đức Đại Nhật Nhu Lai, rồi truyền lại cho ngài Long Mãnh Bồ-tát (tức ngài Long Thọ), ngài Long Mãnh truyền cho ngài Long Trí Bồ-tát, ngài Long Trí truyền cho ngài Thiện Vô Úy tam tạng và ngài Kim Cang trí tam tạng. Đến niên hiệu khai nguyên đời Đường, ngài Thiện Vô Úy và ngài Kim Cang trí trước sau qua Trung Hoa, rộng truyền bí pháp. Học trò của ngài Thiện vô úy là ngài Nhất Hạnh thiều sư, sớ thích kinh Đại Nhật, từ đó giáo nghĩa chơn ngôn mới rõ rệt. Còn ngài Kim Cang trí thời truyền cho ngài Bất Không tam tạng, ngài Bất Không truyền lại cho ngài Huệ Quả hòa thượng, ngài Huệ Quả truyền cho nhà sư người Nhật la ngài Không Hải (tức Hoằng Pháp đại sư) làm vị tổ Mật tôn bên nước Nhật. Giáo Lạt-ma ở Tây tạng cũng thuộc về Mật tôn, do nước Ấn Độ trực tiếp truyền vào. Nay phổ thông gọi Mật tôn truyền qua Nhật là Đông mật, truyền qua Tân Tạng là Tạng mật.

II.- HIỂN GIÁO VÀO MẬT GIÁO

 1.- Hiển giáo : Tôn này nói các kinh điển của Phật Thích-ca Mâu-ni (Ứng thân Phật) nói ra là hiển giáo.

 2.- Mật giáo : Đức Tỳ-lô-giá-na (Pháp thân Phật) trực tiếp nói ra pháp lớn mầu nhiệmmật giáo.

 Phật có ba thân: Pháp thân, Báo thânỨng thânPháp thân là thể, Báo thân là tướng, Ứng thân là dụng. Tôn khác gọi rằng Pháp thân không có hình tướng, không thuyết pháp; tôn này lại chủ trương ứng thân của Phật đối với bậc phàm phu theo chứng bịnh mà cho thuốc, theo căn cơ mà chỉ dạy, phần nhiều là thuyết minh muôn pháp đều duy thức, để dung thông tâm và cảnh, như kinh Giải thâm mật, và luận Du gia, Duy thức v.v...

 3.- Chung giáo : Là giáo lý chung cực của Đại thừa, nói rõ tánh chơn như tùy duyên mà sanh ra muôn phép, sự lý dung thông, hết thảy chúng sinh đều sẽ thành Phật, như kinh Lăng-già, kinh Thắng man và Luận Khởi tín, Luận Bửu tánh v.v...

 4.- Đốn giáo : Là giáo lý dạy bảo lối tu chứng đốn ngộ, một niệm chẳng sanh tức gọi là Phật, không cần lập ra tầng bậc trong khi đoạn hoặc chứng lý, như trong kinh Duy ma cật đã nói.

 5.- Viên giáo : Là giáo lý viên dung đầy đủ, chỉ rõ pháp môn sự sự vô ngại, một là hết thảy, hết thảy là một, như trong kinh Hoa Nghiêm đã nói.

III.- BỐN PHÁP GIỚI

 Bốn pháp giới :

 1.- Sự pháp giới : Sự là nói về các sự tượng sai biệt, sắc, tâm các pháp đều có khác nhau, giới hạn rõ ràng, như nước, gió và nước nóng, không thể xen lộn được; ấy là sự pháp giới.

 2.- Lý pháp giới : Là lý tánh bình đẳng, tức là chỗ nương dựa cho tất cả sự tượng, gọi là pháp tánh, cũng gọi là chơn như, là cái lý thông khắp tất cả, như nước và gió cùng nước nóng, tướng trạng tuy khác mà thể tánh là một; ấy là lý pháp giới.

 3.- Lý sự vô ngại pháp giới : Là nói lý do nơi sự mà rõ, sự nương vào lý mà thành, lý và sự dung thông, như nước tức là sóng, sóng tức là nước, ấy là lý sự vô ngại pháp giới.

 4.- Sự sự vô ngại pháp giới : Là nói các sự tướng sai biệt, đều từ trong lý tánh bình đẳnghiển hiện ra. Sự lý đã là không ngại, thời sự sự cũng không ngại, hết thảy sự tướng sai biệt, xứng tánh dung thông, một tức là nhiều, nhiều tức là một, lớn nhỏ dung nhau, lớp lớp không cùng tột như làn sóng này làn sóng kia, một làn sóng cùng nhiều làn sóng khác, thảy đều dung thông, không chướng ngại nhau; ấy là lý nghĩa mầu nhiệm về sự sự vô ngại pháp giới của tôn này.

IV.- BỐN MÓN DUYÊN KHỞI

 Duyên khởi có bốn món là: nghiệp cảm duyên khởi, lại-da duyên khởi, chơn như duyên khởi, và pháp giới duyên khởi.

 1.- Nghiệp cảm duyên khởi là lối chủ trương về giáo lý của Tiểu thừa, ý nghĩa nói, chúng sinh do sự mê lầm tạo ra các nghiệp, do nghiệp mà cảm chịu cái quả khổ sống chết, rồi do nơi quả khổ sống chết đời bây giờ, lại sanh ra sự mê lầm và tạo ra các nghiệp, như vậy xoay vần không thôi, cho nên tâm, thân và thế giới của chúng sinh đều do nghiệp lựcsanh khởi ra vậy.

 2.- Lại-da duyên khởi là cái nghĩa thuộc về Đại thừa tướng thỉ giáo. Pháp duyên khởi này nói người ta ai cũng có một tâm thức rất vi tế, gọi là A-lại-da (dịch nghĩa là tạng), nó hay chứa đựng không lường chủng tử của muôn pháp, tâm, thân và thế giới đều do không lường chủng tử ấy gặp duyên là sanh khởi ra.

 3.- Chơn như duyên khởi là nghĩa thuộc về Đại thừa chung giáo, nói rõ chơn như tùy duyên mà sanh ra muôn pháp, theo duyên nhiễm thì thành ra lục phàm, theo duyên tịnh thì thành ra tứ thánh, cho nên mười pháp giới đều do chơn như tùy duyênsanh khởi ra.

 4.- Pháp giới duyên khởi là cái nghĩa thuộc về viên giáo của tôn này, chủ trương pháp giới là một duyên khởi rất lớn, cái năng lực chủ động của các pháp duyên khởi đã không phải thuộc về nghiệp lực của chúng sinh, cũng không phải tâm thức sai biệt sanh diệt của A-lại-da, mà cũng không phải là cái lý tánh bình đẳng bất sanh bất diệt của chơn như, mà chính là muôn pháp cái này cái kia dung thông nhau, cùng nhau làm duyên khởi, lớp lớp không cùng tột, cho nên cũng gọi là vô tận duyên khởi.

V.- SÁU TƯỚNG VIÊN DUNG

 Cái nghĩa sáu tướng viên dung, sở xuất từ kinh Hoa Nghiêm, ngài Thế Thân làm bộ ‘Thập địa luận’ để giải rộng nghĩa lý ấy, ngài Chí Tướng cũng phát huy ý nghĩa mầu nhiệm, ngài Hiền Thủ cũng chép thuật nghĩa lý ấy. Nay ý theo chương giáo nghĩa (gọi chỏ đủ là chương Hoa Nghiêm nhất thừa giáo nghĩa phần tế, cũng gọi chương ngũ giáo), sơ lược chỉ bày chỗ thiết yếu:

 1.- Tổng tướng nghĩa là nói một mà gồm có nhiều đức tánh, ví như nói cái nhà, là gồm cả rường, cột, ngói, đá các duyên mà thành, cho nên chỉ cái nhà là tổng tướng.

 2.- Biệt tướngnói nhiều đặc tánh chứ không phải một, ví như trong cái nhà có đủ rường, cột, ngói, đá v.v... cùng với tổng tướng của cái nhà vẫn khác. Nhưng biệt tướng nương vào tổng tướng của cái nhà mà làm cho cái tổng tướng ấy được trọn đủ, nếu khôngbiệt tướng thời cái nghĩa của tổng tướng cũng không thành. Vì sao? Là bởi có biệt mớI có tổng, trái lại nếu không biệt thời cũng không tổng vậy.

 3.- Đồng tướng là nói tuy nhiều nghĩa, nhưng vẫn không trái nhau, mà đồng thành một nghĩa tổng. Ví như rường, cột, ngói, đá, các duyên ấy hòa đồng với nhau mà làm thành cái nhà, không trái ngược nhau; nên đều gọi là các duyên thuộc về nghĩa tổng. Đồng làm cái nhà chứ không làm vật gì khác, cho nên gọi là đồng tướng. Nghĩa tổng tướng nói ở trước là chỉ toàn thể cái nhà mà nói; đồng tướng thời nói cả các duyên về rường, cột, ngói, đá, thể chất tuy khác nhau, nhưng đồng chung làm thành một cái nhà, nhơn gọi là đồng tướng.

 4.- Dị tướngnói nhiều nghĩa đối nhau đều khác, ví như rường, cột, ngói, đá các duyên ấy, cái này trông cái kia, hình dạng và loài giống khác nhau, cho nên gọi là dị tướngBiệt tướng trước kia là chỉ rường, cột, các duyên khác với tổng tướng của một cái nhà; dị tướng nói đây là chỉ về các duyên, duyên này với duyên kia, các tướng trạng đều khác.

 5.- Thành tướng là nói do các nghĩa kể trên mới thành pháp duyên khởi, ví như từng bộ phận của các duyên rường, cột, ngói, đá - nương dựa nhau mà thành toàn thể, trong các bộ phận ấy, mỗi mỗi đều đủ các đặc tánh, mà vẫn hòa đồng thành việc, nhơn thế cái nhà mới thành, nên gọi là thành tướng.

 6.- Hoại tướng là nói các nghĩa đều an trú nơi pháp mình mà không dời động; ví như rường, cột, ngói, đá, tự rường, cột, ngói, đá, mỗi mỗi đều tự an trú nơi pháp mình, vẫn không làm nhà hay làm thành việc khác, ấy gọi là hoại tướng.

 Sáu tướng chia ba đôi : Như trên đã lược thuật sáu tướng, nếu dùng con sư tử bằng vàng làm ví dụ, thời con sư tửtổng tướng, năm căn sai biệt của nó là biệt tướng, năm căn đều đồng một pháp duyên khởiđồng tướng, năm căn như tai, mắt vẫn khác nhau là dị tướng, các căn hội hiệp mà thành con sư tửthành tướng, các căn đều an trú nơi phận vị mình là hoại tướng. Tổng, biệt hai tướng là một cặp năng thành và sở thành, những pháp sở thành là tổng, pháp năng thành là biệt. 

Đồng, dị, hai tướng là chính nơi pháp năng thành mà nói, nghĩa là các duyên năng thành hòa hiệp làm nên cái nhà gọi là đồng, tuy vậy, trong các duyên hình loại khác nhau gọi là dị. 

Thành, hoại, hai loại tướng là chính nơi pháp duyên khởi mà nói : cái dụng của pháp duyên khởi hay thành tựu các pháp duyên khởi là thành, tự tánh không lay động là hoại. Sáu tướng ấy, tổng, biệt là chỉ về dụng mà nói ; đồng, dị là chỉ về tướng mà nói ; thành, hoại là chỉ về dụng mà nói ; ấy gọi là ba đôi tức là ba lối đối đãi.

 Viên dung và hàng bố : Trong sáu tướng ba đôi, tổng tướng, đồng tướngthành tướng là do thể mà lập tôn, tức là thuộc về môn viên dung; biệt tướng, dị tướnghoại tướngdo nơi sự sai biệt mà lập tôn, tức là thuộc về môn hàng bố (hàng liệt phơi bày). Nhưng bình đẳngsai biệt, tướng tức tương nhập[1], viên dung không ngại, lìa tổng tướng thời không biệt tướng, lìa đồng tướng thời không dị tướng, lìa thành tướng thời không hoại tướngTổng tướng tức biệt tướng, biệt tướng tức tổng tướng, đồng tướng tức dị tướng, dị tướng tức đồng tường, thành tướng tức hoại tướng, hoại tướng tức thành tướng. Cho nên viên dung không lìa hàng bố, hàng bồ không lìa viên dung, viên dung tức hàng bố, hàng bố tức viên dung; như vậy, sáu tướng không ngại, gọi là sáu tướng viên dung. Hết thảy các pháp đều đủ sáu tướng ấy, không một pháp nào là không viên dung tự tại, tức nhập không ngại. Ấy là nghĩa huyền diệu của Hoa Nghiêm nhất thừa viên giáo.

VI.- MƯỜI HUYỀN MÔN

 Mười huyền môntiếng gọi vắn tắt của mấy chữ “mười pháp môn huyền diệu duyên khởi không ngại”, gốc là ở nơi bộ Hoa Nghiêm nhất thừa thập huyền môn của ngài Chí Tướng. Chương giáo nghĩa của ngài Hiền Thủ vẫn theo đó. Đến khi ngài làm bộ Thám huyền ký, mới thay đổi hai môn. Hay y theo bộ Thám huyền ký và kinh Hoa nghiêm sớ sao, lược thuật ý nghĩa như sau này: 

 1.- Môn ‘đồng thời khẳm đủ các pháp tương ưng’ : Là nói trong khi nêu lên một pháp đồng thời khẳm đủ các pháp, một pháp đã đủ, thời pháp nào, pháp nào cũng vậy, đồng thời xen dung nhau, cùng nhau đặng tương ứng, đầy đủ, trọn khắp. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng : “Hết thảy pháp môn như biển lớn vô tận, đồng chung về trong đạo tràng của một pháp” Nay lấy ví dụ đặng dễ rồi: như một giọt nước biển là đủ cá khí vị của trăm sông.

 2.- Môn ‘rộng và hẹp tự tại không ngại’. Là nói lớn không chi ngoài, gọi là rộng, nhỏ không vật gì lọt vào trong, gọi là hẹp ; nhưng lớn không phải nhất định là lớn, để trên đầu mảy lông mà không hẹp, nhỏ không phải nhất định là nhỏ, bao trùm cả thái hư có dư, tức có chỗ gọi rằng : ‘sự nhờ lý mà được dung thông, tự tai không ngăn ngại’. Như trong kinh Hoa Nghiêm nói : “Hay dùng thế giới nhỏ làm ra thế giới lớn, thế giới lớn làm thành thế giới nhỏ v.v...” Ví như cái đài gương lớn chừng một thước, soi thấy được các cảnh tướng trạng ngàn dặm.

 3.- Môn ‘một và nhiều dung nhau không đồng’ : Là nói một cõi Phật cùng với hết thảy cõi Phật trong mười phương, dung nạp lẫn nhau, mà vẫn không hoại cái tướng một, nhiều. Kinh Hoa Nghiêm nói : “Dùng một cõi Phật làm đầy đủ cả mười phương, đem mười phương vào trong một cõi Phật mà cũng không dư”. Ấy cũng như ngàn ngọn đèn trong một cái nhà, sáng ngọn này ngọn kia lẫn hiệp nhau.

 4.- Môn ‘các pháp tương tức tự tại’ : Là nói hết thảy các pháp, cùng dung cùng tức, không ngăn ngại nhau; như một pháp khi bỏ mình đồng với pháp khác, thời toàn thể đều về nơi pháp kia; nếu một pháp nhiếp thâu các pháp đồng về mình, thời hết thảy các pháp kia, tức toàn thể lại về nơi một pháp thâu nhiếp ấy. Kinh Hoa Nghiêm nói : “Một tức nhiều, nhiều tức một” ; cũng ví như chất vàng với sắc vàng, hai pháp ấy không rời nhau.

 5.- Môn ‘ẩn mật tỏ rõ đều thành’ : Là nói hết thảy các pháp thâu nhiếp lẫn nhau, dung thông không ngại, như một pháp nhiếp nhiều pháp, thời một pháp rõ bày mà các pháp đều ẩn, nếu nhiều pháp nhiếp vào một pháp, thời nhiều pháp rõ bày mà một pháp phải ẩn, trong hiển có ẩn, trong ẩn có hiển, gọi là đều thành. Sự ẩn, hiển ấy, thể không sau trước, chẳng ngăn ngại nhau, như đúc vàng làm sư tử, khi thấy vàng thời tướng sư tử ẩn, thấy tướng sư tử thời vàng ẩn, ẩn hiển đồng thời quyết không.

 6.- Môn ‘vi tế dung nhau an lập’ : Là nói một pháp hay bao trùm nhiều pháp, gọi là dung nhau; một với nhiều không lẫn lộn, gọi là an lập; nhưng chỗ bao trùm rất vi tế, như bình pha lê đựng nhiều hột cải, mỗi mỗi đều rõ ràng bày hiện, không ngăn ngại. Kinh Hoa Nghiêm nói : “Trong một mảy trần, hết thảy cõi nưới rộng rãi an trụ”.

 7.- Môn ‘cảnh giới tướng võng nhơn đà la’ : Tiếng Phạn là indra (nhơn đà-la), tức là cõi đời vua Đế Thích; cung điện cõi trời ấy, có cái màn lưới bằng bửu châu, trong một hột bửu châu chói hiện đủ muôn lượng, các hột châu khác cũng vậy, chói hiện lẫn nhau, xen nhau sáng suốt, lớp lớp không cùng tột. Nay pháp môn này cũng vậy, trong mỗi mỗi pháp, lẫn nhau, lớp lớp không cùng tột. Kinh Hoa Nghiêm nói : “Các đức Phật biết hết thảy thế giới đều như thế giới màn lưới nhơn đà-la”..

 8.- Môn ‘mướn sự rõ pháp sanh trí hiểu biết’ : Là nói khi mướn một sự gì để nêu bày, tức rõ pháp môn vô tận, khiến người sanh lòng tin hiểu sâu xa, như dựng tay, đánh quyền, chạm mắt đều là đạo.

 9.- Môn ‘mười đời cách pháp dị thành’ : Là nói ba đời đều có ba gọi là biệt, một niệm là tổng, cho nên gọi là mười đời. Ba đời riêng chia không xen lộn nhau, cho nên gọi là cách pháp; ba đời đều tồn tại, xen nhau thành lập, cho nên gọi là dị thành. Kinh Hoa Nghiêm nói : “Các bậc Bồ-tát có mười lối nói ba đời: Quá khứ nói quá khứ, quá khứ nói hiện tại, quá khứ nói vị lai; hiện tại nói quá khứ, hiện tại nói bình đẳng, hiện tại nói vị lai; vị lai nói quá khứ, vị lai nói hiện tại, vị lai nói vô tận” 

Lại nói : “Không lường không ngằn kiếp, thấu rõ tức một niệm”, chính là nghĩa ấy, như trong một giấc chime bao rõ ràng thấy việc trăm năm.

 10.- Môn ‘chủ ban viên mình cụ đức’ : Là nói đức Như Lai nói ra pháp môn Viên giáo, lý không tự khởi, phải có quyến thuộc tùy sanh, cho nên mười phương các đức Phật, các vị Bồ-tát, xen nhau làm chủ, bạn, lớp lớp tham giao, đồng thời đốn xướng[2] pháp môn viên giáo, như cái mặt trăng sáng trên không, các ngôi sao đoanh vây, trăm song xa gần thấy đều chói hiện; ấy gọi là chủ, bạn viên minh. Những pháp môn nói trong các hội cân xứng lý tánh, lời bàn rốt ráo, đủ các công đức, cho nên gọi là cụ đức. Kinh Hoa Nghiêm nói : “Pháp giới Tu-đa-la dùng Phật sát vi trần số Tu-đa-la làm quyến thuộc”, chính là nghĩa ấy.

VII.- MƯỜI TÔN

 Ngài Hiền Thủ làm chương giáo nghĩa chia Đại thừaTiểu thừa ra làm 10 tôn 

 1.- Ngã, pháp cu hữu tôn là tôn nói người ta và các pháp trong vũ trụ đều thật có, như giáo pháp về nhơn, thiên và các bộ phái về Tiểu thừa như là độc tử, pháp thượng, hiền trụ, chính lượng, mật lầm, căn bổn v.v...

 2.- Pháp hữu ngã vô tôn là tôn nói về thể tánh của các pháp thật có, mà ngã chấp thời không, như phái nhất thiết hữu, tuyết sơn, đa văn, hóa địa về Tiểu thừa.

 3.- Pháp vô khứ lai tôn là tôn nói cái chấp nhơn ngã vẫn không, mà các pháp cũng chỉ hiện tại là có thể tánh, quá khứvị lai thời không, như phái đại chúng, kê giẫn chế đa sơn, tây sơn trụ, bắc sơn trụ, pháp tạng, ẩm quang, căn bổn, hóa đọa.

 4.- Hiện thông giả thiệt tôn là tôn nói chẳng những quá khứ vị lai không có thể tánh, chính các pháp hiện tại cũng có giải có thiệt, như lối chấp cuối cùng của phái thuyết giả, kinh bộ về Tiểu thừa.

 5.- Tục vọng chơn thiệt tôn là tôn nói tục đế là giả, chơn đế là thiệt, như phái thuyết xuất thế của Tiểu thừa.

 6.- Chư pháp đẳng danh tôn là tôn nói hết thảy các pháp hữu lậuvô lậu chỉ có giả danh (danh từ suông), chớ không có thiệt thể, như phái nhất thiết của Tiểu thừa.

 7.- Nhất thiết giai không tôn là Đại thừa thỉ giáo, mà chính là chỉ về ‘không thỉ giáo’. Tôn này nói về hữu vi là không, vô vi cũng là không, rốt ráo đều không - hết thảy các pháp đều không.

 8.- Chơn đức bất không tôn là Đại thừa chung giáo, nghĩa là nói chơn như đủ có cái thiệt đức không thay đổi, cho nên gọi là chơn đức; chơn như có tự thể, cho nên gọi là bất không, lại bản tánh vốn đủ hằng sa công đức; cho nên nói là bất không.

 9.- Tướng tưởng cu tuyệt tôn tức Đại thừa đốn giáo. Tôn này nói về tâm năng duyên (tưởng) cùng cảnh sở duyên (tướng) đều dứt (tuyệt) cho nên giáo là giáo pháp tuyệt ngôn, lý là chơn lý tuyệt ngôn.

 10.- Viên minh cụ đức tôn là Đại thừa viên giáoViên minh ý nghĩa là đầy đủ sáng suốt; cụ đức là nói pháp tánh đầy đủ các đức mầu nhiệm, muôn tượng bản giăng. Tôn này gọi rằng hết thảy các pháp, xứng tánh viên dung, khẳm đủ các đức, rộng khắp bao dung, sự sự vô ngại, chủ, bạn không cung tột. Cho nên trong bộ Hoa Nghiêm huyền đàm của ngài Thanh Lương gọi là viên dung cụ đức tôn.

 Xét theo trong Hoa Nghiêm huyền đàm đã nói, thời sáu tôn trước cùng với chương ngũ giáo đồng nhau, chỉ tôn thứ bảy là tam tánh không, hữu tôn nghĩa là nói biến kế sở chấp là không, y tha, viên thành là có, cho nên gọi là tam tánh không, hữu; ấy là cái danh từ chính nơi Đại thừa ‘tướng thỉ giáo’ mà lập ra. Thứ tám là chơn không tuyệt tướng tôn, tức là tôn tướng tưởng cu tuyệt trong chương giáo nghĩa; thứ chin là không hữu vô ngại tôn, cũng tức là tôn chơn đức bất không trong chương giáo nghĩa. Chẳng qua về thứ lớp thì tôn thứ tàm và thứ chin có thay đổi, là nhơn vì ngài chung, đốn, viên - mà ngài Thanh Lương thời y theo thứ lớp về bốn pháp giới, cho rằng chơn không tuyệt tướng là thuộc về lý pháp giới, không hữu vô ngại là thuộc về lý sự vô ngại pháp giới.

VIII.- BA PHÉP QUÁN VỀ PHÁP GIỚI

 Ba phép quán về pháp giới là: chơn không quán, lý, sự vô ngại quán, châu biến hàm dung quán.

 1.- Chơn không quán : Phép quán này y theo lý pháp giới mà lập ra, nghĩa là nói chẳng phải hư vọng, niệm lự, gọi là chơn, chẳng phải sắc tướng ngăn ngại gọi là không; cho nên dứt vọng tình rõ bày chơn tánh, khiến thấy sắc không phải thiệt sắc, toàn thể là chơn không, không, không phải là không hẳn (đoạn không), toàn thể là chơn tánh. Như vậy, thời hay dẹp sạch tình trần, mà sắc, không không ngại, bặt dứt trí giải, mà tâm, cảnh đều dung, cho nên gọi là chơn không quán.

 2.- Lý sự vô ngại quán : Pháp quán này y theo ‘lý sự vô ngại pháp giới’ mà lập, nghĩa là nói thể tánh thanh tịnh sáng suốt gọi là lý; hình tướng phân hạng gọi là sự; cho nên quán lý rộng lớn đều quy về nơi một mảy trần, tức nơi đó mà rõ thấu cái sắc của mảy trần, thông khắp cả pháp giới: ấy là dung các tướng hư giả của muôn tượng toàn là một tánh sáng suốt của Nhất chơn, lý sự thấu suốt, viên dung không ngại, cho nên gọi là lý sự vô ngại quán.

 3.- Châu biến hàm dung quán : Phép quán này y theo sự sự vô ngại pháp giới mà lập ra, nghĩa là nói không chỗ nào là không có, gọi là châu biến; không pháp nào là không thâu nhiếp, gọi là hàm dung; cho nên quán cái lý, toàn nơi sự, tùy một sự gì mà mỗi mỗi đều thấy; quán mọi sự tức nơi lý, theo lý mà mỗi mỗi đều dung; thế thời, một, nhiều, không ngại, lớn, nhỏ trùm nhau, dung nhiếp lẫn nhau, lớp lớp không cùng tột, ẩn, hiển tự tại, thần dụng khó lường, cho nên gọi là châu biến hàm dung quán.
 

[1] Tương tức, Ỷ nghĩa là nói cái nay tức cái kia như nói: nước tức sóng măn cụt tức gián châu, là muốn chỉ cái tướng không hai. Tương nhập là nói sự ăn nhập với nhau, là nghĩa dung thông, như nói mặt gương này mặt gương kia chiếu vào nhau.

[2] Xướng lên pháp môn tu hành viên mãn đốn – viên mãn đốn ngộ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11640)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11119)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11353)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12566)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10771)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17991)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9954)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10173)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12354)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15348)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11247)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14334)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12111)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12007)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12416)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11189)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12087)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10620)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12558)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14847)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12696)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16582)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19674)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12272)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11865)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13531)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11960)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11850)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11643)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12771)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14525)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12617)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13630)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12905)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18020)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11170)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13056)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10315)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12201)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15320)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12223)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11488)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14276)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19708)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14158)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24614)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10695)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant