Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương VI: Trường Phái Trung Quán

01 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9255)
Chương VI: Trường Phái Trung Quán

SẮC TƯỚNGTHẬT TƯỚNG

Vấn Đề Nhị Đế Trong Tứ Đại Thuyết Phái của Phật Giáo
Prof. Guy Newland, Ph.D.
Tâm Hà Lê Công Đa chuyển ngữ

CHƯƠNG VI
TRƯỜNG PHÁI TRUNG QUÁN 

Thánh giả Long Thọ, người tiên phong của trường phái Trung Quán, trong “Nhập Trung Quán Luận” và những công trình luận giải khác đã biện giải rằng ý nghĩa đích thực những lời dạy của Đức Bổn sư về tánh Không, Chân đế là khi ta phân tích tra vấn đến tận cùng mọi vật có vẽ như có thật, ta không hề tìm thấy chúng. Thế nên, không có gì được gọi là hiện hữu một cách chân thật hay tuyệt đối. Jamyang đã đưa ra một định nghĩa tổng quát về trường phái Trung Quán như sau :

Một người theo Trung Quán là người hoàn toàn phủ nhận biên kiến chấp thường, tức là chấp mọi hiện tượng giới hiện hữu một cách rốt ráo, cũng như hoàn toàn phủ nhận biên kiến chấp đoạn, tức là chấp rằng mọi hiện tượng giới đã không hiện hữu một các công ước. (1)

 Biên kiến chấp thường là thái độ cụ thể hoá hiện tượng giới, gán cho chúng một cách thế hiện hữu mà chúng không hề có. Biên kiến chấp đoạn là thái độ phản bác hiện tượng giới bằng cách phủ nhận một hình thái hiện hữu đã có mặt.

 Trong thực tế, mọi thuyết phái Phật giáo đều tuyên bố là mình đi theo con đường trung đạo, ở giữa hai biên kiến chấp thường và chấp đoạn, và mỗi trường phái đều xem các trường phái khác hoặc ngoại đạo là rơi vào biên kiến. Tuy nhiên nhìn một cách bao quát, nếu như ta bước dần lên những bậc thang thuyết phái theo quan điểm của Hoàng Mạo phái, chúng ta sẽ nhận thấy rằng tất cả những gì mà các thuyết phái phủ nhận -chống lại biên kiến chấp thường- ngày càng một nhiều hơn, trong khi đó tất cả những gì mà các thuyết phái khẳng định -chống lại biên kiến chấp đoạn- ngày càng ít hơn.

 Phân Biệt Thuyết đã bác bỏ biên kiến chấp thường bằng cách khẳng định rằng tất cả các pháp hữu vi đều tan rã hoại diệt trong từng sát na, đồng thời bác bỏ biên kiến chấp đoạn bằng cách khẳng định rằng mọi sựï vật là những hiện thể (substantial established, rdzas grub, dravya-siddha). Phân Biệt Thuyết là trường phái duy nhất phân biệt giữa hiện thể và sự hữu (substantial existence, rdzas yod, dravya-sat).

Chỉ có những Chân đế (ví dụ như các hạt bất khả phân hoặc các sát na bất khả phân của ý thức) mới được coi như là những sự hữu, còn tất cả hiện tượng giới đều là những hiện thể, có nghĩa rằng chúng sở hữu những thực chất của riêng chúng. Phân Biệt Thuyết mạnh mẽ khẳng định rằng tất cả mọi vật phải sở hữu “thực chất” riêng để có thể hiện hữu như là nó được hiện bày. 

Phái Luận Lý của Kinh Lượng Bộ đã đi một bước tách rời khỏi khái niệm về thực tính này (biên kiến chấp thường) bằng cách cho rằng một vài hữu thể (cụ thể như hiện tượng giới thường hằng, con người) đều chỉ là những hiện hữu giả lập (btags yod, prajnapti-sat). Điều này có nghĩa là những sự vật có thể hiện hữu mà không cần phảithực chất riêng, không cần phải là những tự thể hoàn toàn độc lập.

Con người chẳng hạn, chỉ là những gán đặt do những ý niệm nắm bắt các sắc uẩn về tâm-vật lý. Đồng thời, Kinh Lượng Bộ cũng bác bỏ quan điểm biên kiến chấp đoạn bằng cách khẳng định rằng mọi hiện tượng giới được thiết định bởi những phẩm tánh riêng của chúng như là những giả danh, ngôn thuyết và thuần tuý khái niệm.

Những người theo Duy Thức bác bỏ biên kiến chấp thường bằng cách phủ nhận một phần nội dung mà Kinh Lượng Bộ xác quyết -sự hiện hữu của hiện tượng giới bởi những phẩm tánh của chúng như là những giảdanh và thuần tuý khái niệm. Họ cũng bác bỏ biên kiến chấp đoạn vốn cho rằng mọi Chân đế đều được thiết định một cách rốt ráo, và hiện hữu do tự tánh của chúng, trong khi đó những Tục đế được gọi là thường hằng cũng chỉ là “thực hữu” ở một mức độ nào đó bởi vì chúng thực ra là sản phẩm cấu thành bởi nhân duyên.

cuối cùng, trường phái Trung Quán Tông vốn xem các thuyết phái thấp hơn là rơi vào con đường biên kiến chấp thường, đã bác bỏ thái độ biên kiến này bằng cách khẳng định rằng chẳng có gì được gọi là hiện hữu một cách chân thực hay rốt ráo. Trung Quán Tông cũng bác bỏ biên kiến chấp đoạn bằng cách khẳng định mọi hiện tượng giới chỉ hiện hữu một cách công ước.

Một khi mà tất cả mọi sự vật hiện hữu chỉ hiện hữu một cách công ước, không có cái gì hiện hữu một cách rốt ráo, thì vấn đề quan trọng đặt ra là, (i) ta không nên mơ hồ giữa hiện hữu rốt ráoChân đế, và (ii) ta cũng không nên mơ hồ giữa hiện hữu thông tục và Tục đế hay phúc đế. Nên nhớ rằng tất cả tứ đại thuyết phái đều coi Nhị Đế là những đối thể của tri lượng, nghĩa là chúng hiện hữu. Chỉ khác một điều là đối với Trung Quán Tông, Nhị Đế chỉ hiện hữu một cách thông tục, không phải hiện hữu một cách rốt ráo.

Một điểm nữa, bởi vì tánh Không (Chân đế) là phẩm tánh vốn không có sự hiện hữu rốt ráo, thế nên một nhận thức đúng đắn về Chân đế sẽ đưa ta đến nhận thức làm thế nào để phủ nhận loại hiện hữu được cường điệu (hiện hữu rốt ráo) mà do vô minh chúng ta đã nhìn thế giới này như thế. Cũng tương tự như vậy, hiểu biết về phúc đế cũng có nghĩa sẽ đưa ta đến sự hiểu biết bằng cách nào mà con người, những hành động và hậu quả của chúng, cũng như các sắc thái muôn màu của hiện tượng giới thông tục đã hiện hữu một cách công ước như thế. Thế cho nên, Nhị Đế được vận dụng như là một khung sườn để qua đó có thể lý giải được cách thế mà sự vật đã hiện hữu một cách không chân thựcrốt ráo.

CHÚ THÍCH

(1) Great Exposition of Tenets, trích dẫn và dịch bởi Hopkins trong “Meditation on Emptiness”. London: Widom, 1983. 451.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15788)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11093)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53697)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13008)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16547)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15422)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19182)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19960)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15581)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15367)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15161)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20371)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23989)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15514)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13066)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20175)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13303)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29036)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11730)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18326)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16660)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13265)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12826)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13275)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13010)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12904)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13033)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13567)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11739)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14263)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17763)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22642)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13473)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14357)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105818)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14625)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19813)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38453)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15553)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34716)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16083)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11372)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15688)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14051)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12849)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13733)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12530)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19400)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27050)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13167)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13501)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21634)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 18001)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21938)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14237)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16093)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16170)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19145)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24806)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant