Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Dược Sư

18 Tháng Chín 201000:00(Xem: 25552)
Kinh Dược Sư
KINH DƯỢC SƯ
Đời Đường Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang dịch Hán
a Thượng Thích Trung Quán Dịch Việt

TÁN PHẬT

Nguyện đem lòng thành kính

Gởi theo đám mây hương

Phảng phất khắp mười phương

Cúng dường ngôi Tam Bảo

Thệ trọn đời giữ đạo

Theo tự tánh làm lành

Cùng pháp giới chúng sinh

Cầu Phật từ gia hộ

Tâm bồ đề kiên cố

Xa bể khổ nguồn mê

Chóng quay về bờ giác


Ðấng Pháp Vương vô thượng

Ba cõi chẳng ai bằng

Thầy dạy khắp trời người

Cha lành chung bốn loài

Quy y trọn một niệm

Dứt sạch nghiệp ba kỳ

Xưng dương cùng tán thán

Ức kiếp không cùng tận.


Chí tâm đảnh lễ : Nam mô Tận hư không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)


 Chí tâm đảnh lễ : Nam mô Ta-Bà Giáo Chủ Ðiều-ngự Bổn-sư Thích Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại-Trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ pháp Chư tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thương Phật Bồ-tát. (1 lạy)


Chí tâm đảnh lễ : Nam mô Tây Phương Cực-Lạc thế-giới đại-từ đại bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-Tát, Ðại Nguyện Ðịa Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-Tịnh Ðại-Hải Chúng Bồ-Tát.

(1 lạy)

 

TÁN LƯ HƯƠNG


Hương thơm vừa đốt lên

Pháp giới đều thấm nhuần

Hải hội chư Phật đều xa hay

Theo chỗ kết mây lành

Lòng thành mới ân cần

Chư Phật đều hiện thân


Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)


BÀI TÁN KINH

 Ta Bà là chốn tạm ở thôi

Cửa không mau phải hồi đầu lại

Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng

Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành

Phương tây sen nở thơm tho mãi

Nam Diêm quả phúc mai ngày tốt

Giải kết tiêu tai thêm tuổi thọ

Phúc trí trang nghiêm được vẹn toàn.


BÀI TÁN PHẬT


Ðức Giáo Chủ Ðông Phương, mười hai nguyện vương.

Bốn chín sen vàng sáng sủa đàn tràng.

Bảy bảy diễn chân thường.

Lễ kính tán dương tiêu tai thọ duyên trường.


Nam Mô Dược Sư Hải Hội Phật Bồ Tát. (3 lần)


KỆ KHAI KINH


Pháp vi diệu thâm sâu vô thượng

Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được

Nay con thấy nghe được thọ trì

Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

 


KINH DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG

NHƯ LAI BỔN NGUYỆN CÔNG ÐỨC

 

Tôi nghe như vầy : Một thời Ðức Bạt Già Phạm đi du hoá các nước, tới thành Quảng Nghiêm. Ngài ngự ở dưới gốc cây Âm Nhạc, với đại chúng Tỳ Kheo tám ngàn người tụ hội. Ðại Bồ Tát ba vạn sáu ngàn người, cùng với những ông vua, đại thần, Bà La Môn, cư sĩ, trời rồng tám bộ, người và chẳng phải người, vô lượng đại chúng cung kính vây quanh, Ngài vì tất cả mọi ngườithuyết pháp.


Bấy giờ, Ngài Mạn Thù Thất Lợi Pháp Vương tử, nương oai thần của Ðức Phật, từ toà ngồi đứng dậy, hở y vai bên phải, gối phải quỳ xuống đất, hướng về Ðức Phật cúi đầu chắp taybạch Phật rằng : Kính lạy Ðức Thế Tôn ! xin Ngài diễn nói các thứ tướng, danh hiệu, của các Ðức Phật, cùng bổn nguyện lớn, và công đức thù thắng của các Ngài, khiến cho những người nghe, nghiệp chướng được tiêu trừ, vì muốn làm lợi ích cho chúng sinh trong đời tượng pháp.


Bấy giờ, Ðức Phật khen ông Mạn Thù Thất Lợi rằng : Lành thay ! Lành thay ! Mạn Thù Thất Lợi ! Ông vì lòng đại bi thỉnh mời ta nói danh hiệu, nguyện xưa, công đức của chư Phật, vì để dứt trừ nghiệp chướng ràng buộc của các loài hữu tình, và làm lợi ích an vui cho các chúng sinh trong đời tượng pháp. Ông hãy lóng nghe và khéo suy gẫm, ta sẽ vì ông mà nói.


Ông Mạn Thù Thất Lợi thưa rằng : Xin Ðức Thế Tôn chỉ dạy, chúng con vui thích được nghe !


Phật bảo ông Mạn Thù Thất Lợi : Về phương đông cách đây vô số cõi Phật, nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới gọi là Tịnh Lưu Ly, ở đó có Ðức Phật hiệuDược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Bạt Già Phạm.


Mạn Thù Thất Lợi ! Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, khi hành đạo Bồ Tát có phát ra mười hai điều nguyện lớn, khiến cho các hữu tình cầu gì được nấy.


Nguyện lớn thứ nhất : Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, hào quang thân tôi chói sáng rực rỡ vô lượng vô số vô biên thế giới. Dùng ba mươi hai tướng tốt của bậc trượng phu, tám mươi vẻ đẹp để trang nghiêm thân, và khiến cho tất cả các loài hữu tình cũng được như tôi.


Nguyện lớn thứ hai : Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề, thân tôi như ngọc lưu ly sáng suốt trong ngoài, thanh tịnh không vết nhơ, ánh sáng rộng lớn, công đức vô lượng, thân yên ở trong lưới sáng trang nghiêm tuyệt đẹp, sáng hơn mặt trời mặt trăng, chúng sinhchỗ tối tăm đều được nhờ ánh sáng, tuỳ ý muốn làm các sự nghiệp.


Nguyện lớn thứ ba : Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề, dùng vô lượng vô biên trí huệ phương tiện, làm cho các loài hữu tình đều được vô tận những vật thọ dụng, chẳng khiến cho chúng sinh thiếu thốn.


Nguyện lớn thứ tư : Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề, đối với các hữu tình, nếu ai theo đạo tà, tôi khiến cho họ ở trong đạo bồ đề. Nếu ai hành theo đạo Thanh Văn, Ðộc Giác, thì tôi sẽ dùng đạo đại thừaan lập cho họ.


Nguyện lớn thứ năm : Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề, nếu có vô lượng vô biên hữu tình tu theo phạm hạnh, ở trong giáo pháp tôi, tôi sẽ khiến cho tất cả đều được không thiếu giới, đầy đủ ba tụ giới thanh tịnh. Nếu lỡ vi phạm, nghe tên tôi rồi, lại được thanh tịnh, chẳng bị đoạ vào đường ác.


Nguyện lớn thứ sáu : Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề, nếu loài hữu tình nào thân thể hèn kém, các căn không đủ, xấu xa, ngu si, mù điếc, câm ngọng, co quắp, còng gù, phát hủi, điên dại, nhiều bệnh khổ. Nếu được nghe tên tôi rồi, thì tất cả đều được đoan chính, thông minh sáng suốt, các căn đầy đủ, hết mọi bệnh khổ.


Nguyện lớn thứ bảy : Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề. Nếu những loài hữu tình bị các thứ bệnh bức bách não hại, không người cứu chữa, không chỗ nương nhờ, không thầy không thuốc, không người thân quen, không nhà không cửa, nghèo cùng khốn khổ. Nếu danh hiệu tôi được lọt vào tai họ, thì mọi thứ bệnh đều tiêu trừ, thân tâm an lạc, gia quyến vật dùng sẽ được đầy đủ, cho đến chứng được đạo vô thượng bồ đề.


Nguyện lớn thứ tám : Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề. Nếu có người nữ nào bị trăm nỗi xấu của thân phận người nữ, bức bách não hại, chán ngán vô cùng, muốn bỏ thân nữ. Nếu được nghe danh hiệu tôi rồi, tất cả đều được đổi thân nữ thành thân nam, đủ tướng trượng phu, cho đến chứng đạo vô thượng bồ đề.


Nguyện lớn thứ chín : Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề. Tôi sẽ khiến cho các loài hữu tình, ra khỏi lưới ma, thoát khỏi tất cả những ràng buộc của ngoại đạo, hoặc bị sa vào rừng rậm ác kiến. Tôi đều dẫn dắt và đặt họ vào chánh kiến, dần dần khiến cho họ tu tập các hạnh Bồ Tát, sớm chứng được đạo vô thượng bồ đề.


Ðiều nguyện lớn thứ mười : Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề. Nếu các loài hữu tình mắc phải pháp luật nhà vua, bị trói buộc đánh đập, giam cầm trong lao ngục, hoặc sẽ bị tử hình, hay vô lượng tai nạn khác, lấn hiếp nhục nhã, sầu thương thê thảm, nung đốt thân tâm, chịu nhiều đau khổ. Nếu được nghe danh hiệu tôi rồi, nhờ sức oai thầnphước đức của tôi, đều được giải thoát tất cả ưu sầu đau khổ.


Ðiều nguyện lớn thứ mười một : Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề. Nếu các loài hữu tình bị sự đói khát bức bách não hại, vì việc tìm cầu thức ăn mà tạo nhiều nghiệp ác. Nếu được nghe danh hiệu tôi rồi, chuyên tâm thọ trì tụng niệm. Trước hết tôi sẽ đem các món ăn ngon, làm cho thân họ no đủ, sau đem pháp vị an vui rốt ráo kiến lập cho họ được an trụ.


Ðiều nguyện lớn thứ mười hai : Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề. Nếu các loài hữu tình nghèo, không có quần áo, bị muỗi mòng lạnh nóng, ngày đêm bức bách não hại. Nếu được nghe danh hiệu tôi mà chuyên tâm tụng niệm thọ trì, thì theo chỗ mong muốn, sẽ được quần áo tốt đẹp, cũng được tất cả đồ vật trang nghiêm quý giá, tràng hoa, hương xoa, âm nhạc, các thứ tuỳ sở thích đều được toại nguyện.


Mạn Thù Sư Lợi ! Mười hai điều nguyện lớn của Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng Chánh Ðẳng Giác phát ra, khi Ngài hành đạo Bồ Tát.


Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi ! Những nguyện lớn của Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia phát ra, khi hành đạo Bồ Tátcông đức trang nghiêm cõi nước của Ngài, dù ta nói một kiếp hay hơn một kiếp, cũng không thể nói hết được. Nhưng, cõi Phật kia thuần thanh tịnh, không có người nữ, cũng không có đường ác, và không có tiếng kêu khổ. Ngọc lưu ly làm đất, dây bằng vàng giăng làm giới hạn đường đi. Thành quách, cung điện, mái hiên cửa nẻo, màng lưới đều làm bằng bảy báu. Công đức trang nghiêm cũng giống như thế giới Cực Lạc phương tây. Ở trong nước đó, có hai vị đại Bồ Tát, một vị hiệu là Nhật Quang Biến Chiếu, một vị hiệu là Nguyệt Quang Biến Chiếu, làm bậc thượng thủ trong vô lượng vô số chúng Bồ Tát cõi đó. Tương lai sẽ được bổ làm ngôi vị Phật. Thọ trì tất cả chánh pháp bảo tạng của Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Mạn Thù Thất Lợi ! những người thiện nam thiện nữ, có tâm tin nên phát nguyện sinh về thế giới của Ðức Phật đó.


Bấy giờ, Ðức Thế Tôn lại bảo Mạn Thù Thất Lợi rằng : Mạn Thù Thất Lợi ! Có những chúng sinh không biết thiện ác, chỉ mang lòng keo kiết tham lam, không biết bố thíquả báo của sự bố thí. Ngu si không có trí huệ, thiếu mất niềm tin, tích luỹ nhiều tiền tài châu báu giữ gìn, thấy kẻ ăn xin đến, tâm không vui vẻ, nếu không từ chối được mà phải đem của ra cho, thì họ rất đau tiếc, như lóc thịt của mình.


Lại có vô lượng chúng sinh, lòng dạ tham sẻn, chỉ tích luỹ tiền của, chính thân họ cũng hà tiện, không dám ăn dùng, huống là có thể bố thí cho cha mẹ, vợ con, tôi tớ, kẻ giúp việc và người đến xin. Những người đó khi chết đi, từ cõi người sẽ sinh vào cõi ngạ quỷ, hoặc đoạ vào cõi súc sinh. Nếu người đó, kiếp trướcnhân gian, đã từng nghe qua danh hiệu Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nay ở nơi đường ác, nhớ lại danh hiệu Ðức Như Lai đó, thì ngay lúc đó được thoát khỏi cõi ác, không ham mê dục lạc, ưa thích làm hạnh bố thí, và khen ngợi những người làm hạnh bố thí. Tất cả những gì mình có đều không tham tiếc, dần dần còn có thể đem : đầu mắt, tay chân, máu thịt, thân phận bố thí cho người xin, huống chi những vật khác.


Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi ! Nếu có những chúng sinh, tuy thọ trì giới pháp của Như Lai, mà lại phá giới, hoặc có người không phá giới, lại phá oai nghi, hoặc có người giữ đủ giới và oai nghi không tổn thất, nhưng lại phá huỷ chánh kiến, hoặc có người tuy không phá huỷ chánh kiến, mà bỏ sự đa văn, đối với ý nghĩa trong Kinh Phật nói không hiểu rõ được. Hoặc có người tuy đa văntăng thượng mạn, bởi tăng thượng mạn, che lấp tâm tánh, nên cho mình là đúng, chê người là sai. Huỷ báng chánh pháp, làm bạn bè với ma, những kẻ ngu si ấy, tự mình làm hạnh tà kiến, còn làm cho vô lượng triệu ức người rới xuống hố sâu nguy hiểm. Những người đó, lẽ phải đoạ vào trong địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, không bao giờ ra được. Nếu họ nghe được danh hiệu Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, liền bỏ hạnh ác, tu các pháp lành, thì khỏi đoạ vào đường ác. Dù kẻ ác đó không bỏ hạnh ác tu các pháp lành, mà bị đoạ vào đường ác, cũng được nhờ oai lực và bổn nguyện của Ðức Như Lai kia, do đời trước đã được nghe qua danh hiệu của Ngài, nên từ chỗ chết đi, lại được sinh lên làm người có đủ chánh kiếntinh tấn, khéo điều phục tâm ý, hoà nhã an vui, có thể xuất gia thọ trì giới pháp của Như Lai, không hề huỷ phạm, thấu hiểu nghĩa lý sâu xa, hết lòng tăng thượng mạn và huỷ báng chánh pháp, xa lìa làm bạn với ma, dần dần tu học các hạnh Bồ Tát, sớm được viên mãn.


Lại nữa Mạn Thù Thất Lợi ! Nếu những hữu tình có tánh tham sẻn, ghen ghét, khen mình chê người. Ðang bị đoạ ở trong đường ác không biết bao ngàn năm, chịu sự cực khổ. Chịu khổ ấy rồi, từ đó chết đi, được sinh lên cõi nhân gian làm loài trâu ngựa, lạc đà, thường bị đánh đập bằng roi, gậy, đói khác, khổ não luôn luôn, mang nặng trên đường đi. Nếu được làm người, thì sinh vào hạng hạ tiện, làm tôi tớ cho người sai khiến, không được rảnh rang. Nếu người đó, đời trước ở trong loài người đã từng được nghe qua danh hiệu Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, do nhân lành đó, nay lại nhớ đến, một lòng quy y, nhờ thần lực của Phật, nên được giải thoát các thứ khổ nói trên, các căn thông lợi, trí huệ học nhiều, thường cầu pháp thù thắng, thường gặp bạn lành, cắt đứt lưới ma, phá các vô minh, cạn sông phiền não, để giải thoát tất cả những khổ não lo sầu : sinh, già, bệnh, chết.


Lại nữa Mạn Thù Thất Lợi ! Nếu những người nào thích làm những việc ngang trái chia lìa, đánh nhau, kiện nhau, làm não loạn cả mình lẫn người, bởi thân miệng ý tạo ra nhiều nghiệp ác, luôn luôn làm việc không có lợi ích, mưu hại lẫn nhau, rồi triệu thỉnh những thần ở trong rừng núi hoặc cây hay mồ mả, giết hại muông sinh lấy máu thịt cúng tế quỷ Doạ Xoa, La Sát, viết tên và làm hình kẻ thù, dùng chú thuật ác mà nguyền rủa, yểm bùa ma, nuôi trùng cổ chú, gọi quỷ nhập vào thây chết đứng lên, sai đi giết chết kẻ thù oán kia. Những người như thế, nếu được nghe biết danh hiệu Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì những việc ác kia sẽ không bị hại. Tất cả rồi cũng trở về tâm từ bi, lợi ích yên vui, và không còn làm thương tổn não hại oán giận. Hai bên hoan hỷ nhận được nơi lòng đầy sự vui vẻ, không lấn hiếp nhau nữa, cùng nhau làm điều lợi ích.


Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi ! Nếu trong bốn chúng : Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ và những người tâm tin thanh tịnh như : người nam người nữ hay thọ trì Bát Quan Trai giới, hoặc thọ suốt năm, hoặc thọ ba tháng, đem căn lành đó, phát nguyện sinh về thế giới Cực Lạc phương tây của Ðức Phật Vô Lượng Thọ, để nghe chánh pháp mà chưa định rõ. Nếu họ được nghe thấy danh hiệu Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì đến lúc chết, sẽ được tám vị đại Bồ Tát : Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Ðắc Ðại Thế, Bồ Tát Vô Tận Ý, Bồ Tát Bảo Ðàn Hoa, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dược Thượng, Bồ Tát Di Lặc. Tám vị đại Bồ Tát nầy bay trên hư không, đến chỉ đường dẫn lối sang cõi Phật kia. Tự mình hoá sinh trong hoa sen báu nhiều màu sắc tốt đẹp, hoặc nhờ đó mà được sinh lên cõi trời. Tuy ở trên đó, mà căn lành ấy không bao giờ hết, nên không phải tái sinh vào các đường ác khác. Khi hưởng hết tuổi thọ trên cõi trời, lại sinh xuống nhân gian còn làm vua Luân Vương, thống trị bốn châu thiên hạ, oai đức tự tại, làm an vui và khiến cho vô lượng trăm ngàn người tu mười điều lành. Hoặc sinh vào dòng dõi vua chúa, Bà La Môn, cư sĩ tại gia giàu có nhiều châu báu, kho tàng đầy dẫy, thân hình đoan chánh xinh đẹp, quyến thuộc đầy đủ, thông minh trí huệ, sức lực hùng mạnh như đại lực sĩ.


Nếu người nữ được nghe thấy danh hiệu Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, chí tâm thọ trì, thì đời sau sẽ không còn làm thân người nữ nữa.


Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi ! Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, khi đắc đạo bồ đề, do sức nguyện xưa, thấy các loài hữu tình gặp nhiều bệnh khổ : Gầy ốm, co quắp, khô hao, sốt rét, vàng da, hoặc bị yểm bùa ma, hoặc bị trùng độc, hoặc là chết yểu, hoặc là chết oan. Muốn cho tiêu trừ những thứ bệnh khổ đó, và cầu gì cũng được mãn nguyện, nên Ðức Phật kia, nhập vào định lực, tên là trừ diệt tất cả khổ não chúng sinh. Nhập định rồi, ở trong nhục kế phóng đại quang minh, diễn nói Chú Ðà la ni :


Nam-mô bạt già phạt đế, bệ sát xả, lụ rô bệ lưu ly, bát lặt bà, hắt ra xà dã, đát tha yết đa da, a ra hắt đế, tam miệu tam bột đà da. Ðát điệt tha. Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế tá ha.


Khi trong quang minh nói bài Thần Chú xong, thì trái đất chấn động, phóng đại quang minh, chiếu sáng đến tất cả những chúng sinh bệnh khổ đều được tiêu trừ, thân tâm an lạc.


Mạn Thù Thất Lợi ! Nếu thấy người thiện nam, thiện nữ, mắc bệnh đau khổ, nên một lòng vì người bệnh đó, tắm gội, súc miệng cho sạch sẽ, tụng Chú nầy trong cơm, hoặc thuốc, hoặc nước không có vi trùng, một trăm tám lần, đem cho họ uống, thì bệnh sẽ được tiêu tan. Nếu muốn cầu gì, chí tâm niệm tụng Chú nầy cũng đều được, lại được sống lâu không bệnh, sau khi chết đi, sẽ được sinh về thế giới của Phật Dược Sư, chứng quả vị bất thoái, cho đến đạo bồ đề. Do vậy, Mạn Thù Thất Lợi ! Người thiện nam, thiện nữ nên chí tâm tôn trọng, cung kính cúng dường Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, và siêng năng tụng Chú nầy, đừng bỏ quên.


Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi ! Nếu người thiện nam, thiện nữ được nghe danh hiệu Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Chánh Ðẳng Giác, nghe rồi nếu muốn trì tụng, sớm dậy phải rửa mặt, súc miệng, tắm gội sạch sẽ, dùng các thứ hương hoa như : hương đốt, hương thoa, trổi các thứ âm nhạc, cúng dường hình tượng Ngài, tự mình viết Kinh nầy, hay dạy người khác viết, một lòng thọ trì nghe nghĩa lý cho kỹ, và nên cúng dường vị Pháp Sư tất cả những thứ cần dùng cho thân thể, đừng để thiếu thốn, như thế mới mong chư Phật hộ niệm cho, và cầu gì đều được mãn nguyện, cho đến đắc đạo bồ đề.


Bấy giờ, Mạn Thù Thất Lợi bạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Con nguyện ở trong đời tượng pháp, sẽ dùng nhiều phương tiện, khiến cho những người thiện nam, thiện nữniềm tin thanh tịnh, được nghe danh hiệu Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cho đến trong giấc mơ cũng dùng danh hiệu Phật, khiến cho họ nghe biết. Ðức Thế Tôn ! Nếu Kinh nầy ai thọ trì đọc tụng, hoặc vì người khác diễn nói, hoặc dạy bảo, hoặc tự viết chép hay dạy người viết chép, cung kính tôn trọng, dùng các thứ hương hoa, hương thoa, hương bột, hương đốt, vòng hoa, tràng anh lạc, lọng, âm nhạccúng dường. Dùng lụa năm màu làm túi đựng, quét dọn một nơi sạch sẽ rồi bày toà cao mà để lên. Lúc đó có bốn vị đại Thiên Vương cùng với họ hàng quyến thuộcvô lượng trăm ngàn dân chúng, đều đến chỗ đó mà cúng dường hộ trì giữ gìn. Ðức Thế Tôn ! Nếu quyển Kinh báu nầy, lưu truyền tại xứ nào, có ai hay thọ trì, do nhờ bổn nguyện công đức của Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, và nghe danh hiệu, thì biết rằng xứ đó không có nạn hoạnh tử, và cũng không bị quỷ thần ác đoạt mất tinh khí. Nếu bị đoạt rồi, lại được hoàn lại như cũ, thân tâm an vui.


Phật bảo ông Mạn Thù Thất Lợi : Ðúng như lời ông nói. Mạn Thù Thất Lợi ! Nếu có người thiện nam, thiện nữ niềm tin thanh tịnh, muốn cúng dường Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, trước phải tạo hình tượng Ngài, bày toà thanh tịnh làm nơi tôn thờ, rải các thứ hoa, đốt các thứ hương, dùng các thứ tràng phan để trang nghiêm. Bảy ngày bảy đêm phải giữ Bát Quan Trai giới, dùng thức ăn thanh tịnh, tắm gội cho sạch sẽ, mặc áo mới, tâm thanh tịnh không ô nhiễm, không giận dữ, không độc hại. Ðối với tất cả loài hữu tình, khởi tâm từ bi hỷ xả, bình đẳng, làm lợi ích an vui cho chúng sinh, đánh trống, trổi âm nhạc, ca hát ngợi khen, đi nhiễu tượng Phật vòng về bên phải. Lại nên niệm bổn nguyện công đức của Như Lai, và đọc tụng Kinh nầy, suy gẫm nghĩa lý, giảng nói dạy bảo cho người, muốn cầu gì cũng được toại tâm mãn nguyện, như cầu sống lâu thì được sống lâu, cầu giàu có thì được giàu có, cầu chức quan thì được chức quan, cầu con trai con gái thì được con trai con gái. Hoặc có người nào hốt nhiên thấy ác mộng, như là : những giống chim quái lạ, đậu nơi nhà mình, hoặc xứ mình ở hiện ra trăm điều quái gở. Nếu người đó dùng các thứ tốt đẹp quý báu cung kính cúng dường Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì những mộng ác tướng ác và những việc không cát tường kia đều tiêu tan hết, thoát khỏi hoạn nạn. Hoặc có nạn nước lửa, đao binh, độc dữ hiểm trở, voi dữ, sư tử hổ lang gấu, rắn độc, bò cạp, ruồi muỗi. Nếu chí tâm nhớ niệm Ðức Phật kia, và cung kính cúng dường, thì tất cả những sự sợ hãi đó đều được thoát khỏi. Nếu nước ngoài xâm chiếm, hoặc quấy nhiễu giặc cướp phản loạn, nhớ niệm cung kính Ðức Như Lai kia, thì sẽ được giải thoát an vui.


Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi ! Nếu có người thiện nam, thiện nữ niềm tin thanh tịnh, cho đến suốt đời không thờ trời, chỉ một lòng quy y Phật Pháp Tăng, thọ trì giới cấm : năm giới, mười giới, mười giới trọng bốn mươi tám giới khinh của Bồ Tát, hai trăm năm mươi giới của Tỳ Kheo, ba trăm bốn mươi tám giới của Tỳ Kheo Ni. Trong lúc giữ giới, lỡ có huỷ phạm, sợ đoạ vào đường ác, nếu chuyên tâm niệm danh hiệu Ðức Phật kia, và cung kính cúng dường, thì quyết định sẽ không sinh vào ba đường ác. Hoặc người nữ đến lúc sinh sản, chịu sự cực khổ, nếu một lòng niệm danh hiệu, lễ bái khen ngợi, cung kính Ðức Như Lai kia, thì mọi sự khổ được tiêu trừ, sinh con đầy đủ, thân thể tốt đẹp, ai thấy cũng mến ưa, thông minh sáng suốt lanh lợi, yên lành ít bệnh, không bị loài phi nhân đoạt mất tinh khí.


Bấy giờ, Ðức Thế Tôn bảo ông A Nan rằng : Như ta tán thán khen ngợi công đức của Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, là công hạnh thâm sâu của chư Phật khó có thể hiểu rõ được, vậy ông có tin không ?


Ngài A Nan bạch rằng : Ðức Thế Tôn ! Con không còn nghi ngờ đối với Kinh điểnNhư Lai đã nói ra. Vì thân miệng ý của tất cả các Ðức Như Lai đều thanh tịnh. Ðức Thế Tôn ! Mặt trời mặt trăng còn có thể rơi được, núi Diệu Cao có thể lay động, lời nói của các Ðức Phật nói ra không bao giờ sai khác được. Ðức Thế Tôn ! Có những chúng sinh niềm tin không đủ, nghe nói công hạnh thâm sâu của các Ðức Phật, tự nghĩ như vầy : Vì sao niệm một danh hiệu của Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, mà được những công đức thù thắng như thế. Bởi họ không tin, nên trở lại phỉ báng. Do vậy, họ sẽ mất lợi lớn trong nhiều đời, chìm đắm trôi nổi, đoạ vào các đường ác.


Phật bảo A Nan rằng : Những chúng sinh đó, nếu được nghe danh hiệu Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, chí tâm thọ trì không hoài nghi, mà đoạ vào đường ác thì quyết không có lý. A Nan ! Ðó là công hạnh thâm sâu của chư Phật khó có thể tin hiểu, mà nay ông có thể tin thọ, nên biết đó là do oai lực của Như Lai. A Nan ! Ðó là các vị Thanh Văn, Ðộc Giác và các vị chưa chứng được bậc Bồ Tát, đều không có năng lực tin thật như thế, chỉ trừ những bậc nhất sinh sở hệ Bồ Tát. A Nan ! Thân người khó được, đối với Tam Bảo, người có lòng tin cung kính tôn trọng cũng rất khó, mà được nghe danh hiệu Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai lại khó hơn nữa. A Nan ! Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Laivô lượng hạnh Bồ Tát, vô lượng phương tiện khéo léo, vô lượng nguyện rộng lớn. Dù ta có nói một kiếp cho đến hơn một kiếp, thì kiếp ấy mau hết, chứ hạnh nguyện phương tiện khéo léo của Ðức Phật đó không bao giờ hết được.


Bấy giờ, trong chúng có một vị đại Bồ Tát, hiệu là Cứu Thoát, từ toà ngồi đứng dậy, hở y vai bên phải, gối bên phải quỳ sát đất, cúi đầu chắp tay, bạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Thời đại tượng pháp, có những chúng sinh bị các bệnh hoạn làm khốn khổ, bệnh lâu gầy xấu, không ăn uống được, miệng môi khô khan, thấy các sự đen tối, tướng chết hiện ra trước mặt, cha mẹ họ hàng, bạn bè thân quen vây quanh khóc lóc, thân còn nằm trên giường, mà hồn vía đã thấy sứ giả đến bắt thần thức, dẫn đến trước mặt vua Diêm Vương. Song, chúng sinh ai cũng có thần Câu-sinh, tuỳ theo làm tội hay làm phước, họ đều biên chép cẩn thận, đem dâng lên vua Diêm Vương. Lúc đó, vua Diêm Vương xét hỏi người có tội đó, tính toán việc làm tuỳ theo tội phước mà xử đoán.

Lúc đó, nếu họ hàng quyến thuộc của người bệnh đó, vì người bệnh mà quy y Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thỉnh các chúng Tăng đọc tụng Kinh nầy, đốt bảy tầng đèn, treo thần phan tục mạng năm màu, hoặc có thể khỏi. Khi thần thức được trở về cũng như trong giấc mơ, tự thấy rõ ràng. Hoặc suốt bảy ngày, hoặc hai mươi mốt ngày, hoặc ba mươi lăm ngày, hoặc bốn mươi chín ngày, thần thức được về như tỉnh giấc mơ, đều nhớ biết hết nghiệp lành nghiệp dữ, do mình chứng kiến những quả báo đã phải chịu. Từ đó đến lúc chết, không tạo các nghiệp ác nữa. Vì thế các người thiện nam thiện nữ, nên thọ trì danh hiệu Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, tuỳ theo sức mình mà cung kính cúng dường.


Bấy giờ, Ngài A Nan hỏi Ngài Bồ Tát Cứu Thoát rằng : Cung kính Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai như thế nào ? và đèn phan tục mạng thế nào ? Bồ Tát Cứu Thoát đáp rằng : Ðại Ðức, nếu người nào có bệnh, muốn cứu thoát khỏi bệnh khổ của họ, nên vì họ trong bảy ngày đêm, thọ trì Bát Quan Trai giới, đồ ăn thức uống, các vật thường dùng, tuỳ sức lực mà làm, để cúng dường các vị Sư Tăng, ngày đêm sáu thời, hành đạo lễ bái cúng dường Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đọc tụng Kinh nầy, bốn mươi chín lần, tạo bảy hình tượng Ðức Phật Dược Sư, bày thành bảy bàn, trước mỗi tượng, thắp bảy ngọn đèn, mỗi ngọn đèn lớn như vòng bánh xe, thắp sáng luôn bốn mươi chín ngày không tắt. Tạo tràng phan năm màu, dài bốn mươi chín gang tay, và phóng sinh các loài súc sinh trong bốn mươi chín ngày, thì sẽ qua khỏi các nạn nguy ách, không bị các hoạnh hoạ và ác quỷ bắt giữ.


Lại nữa A Nan ! Nếu dòng vua chúa và vua quán đảnh, khi gặp tai nạn như : nhân dân bị nạn tật dịch, nạn nước ngoài xâm chiếm, nạn nội loạn phản nghịch, nạn ngôi sao biến quái, nạn nhật nguyệt bạc thực, nạn mưa gió trái mùa, nạn quá thời không mưa. Lúc đó dòng vua chúa và vua quán đảnh, phải nên vì tất cả nhân dân hữu tình khởi tâm từ bi, tha tội nhân trong tù ngục, rồi theo như pháp ở trên mà cúng dường Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, do phước lành đó và sức bổn nguyện của Ðức Như Lai, khiến cho trong nước được yên ổn, mưa hoà gió thuận, lúa được tốt tươi, được mùa no ấm, tất cả nhân dân hữu tình không có tật bệnh, yên vui sung sướng. Ở trong nước không có những sự bạo ác, như : thần Dạ Xoa não hại nhân dân, tất cả tướng ác đều được tiêu tan, dòng vua chúa và vua quán đảnh được thêm tuổi thọ, sức mạnh không bệnh, mọi sự đều thêm hữu ích.


A Nan ! Nếu các bà hoàng hậu, hoàng phi, công chúa, thái tử, vương tử, quan đại thần, quan phụ tướng, thể nữ trong cung, bách quan, nhân dân bị bệnh đau khổ và ách nạn khác, cũng nên tạo lập tràng phan năm màu, đốt đèn, phóng sinh các loài súc sinh, bày các hoa đẹp, đốt các thứ hương thơm, mà cúng dường thì bệnh được qua khỏi, các nạn được tiêu trừ.


Lúc đó A Nan hỏi Bồ Tát Cứu Thoát rằng : Thiện nam tử ! vì sao mạng sống đã hết mà được lợi ích như vậy ? Bồ Tát Cứu Thoát đáp : Ðại Ðức không nghe Ðức Như Lai nói có chín cái chết oan uổng chăng ? Bởi vậy Ngài khuyên tạo lập tràng phan tục mạng, thắp đèn, tu các phước đức. Vì tu các phước đức, nên đến lúc hết tuổi thọ, không phải trải qua các khổ hoạn.


Ngài A Nan lại hỏi rằng : Thế nào là chín cái chết oan uổng ? Bồ Tát Cứu Thoát đáp : Nếu những người mắc bệnh tuy nhẹ, nhưng không có thuốc uống, và người săn sóc, dù có gặp thuốc, lại uống lầm thuốc, đáng lẽ không chết mà bị chết oan, hay là tin theo thế gian tà ma ngoại đạo, các thầy yêu nghiệt, nói liều hoạ phước rồi sinh sợ hãi, tâm không tự chủ được mình, mới đi coi bói xem hoạ hoạn từ đâu, rồi về giết hại muông sinh, cúng thần cầu quỷ, bắt ma để xin phước lành, muốn được thêm tuổi thọ, nhưng không thể được. Kẻ ngu si mê muội tin theo tà ma, kiến thức điên đảo, nên bị chết oan, đoạ vào địa ngục vô gián, đó gọi là chết oan thứ nhất. Thứ hai là chết oan về pháp nhà vua giết. Thứ ba là săn bắn chơi đùa, ham mê dâm dục, rượu thịt buông lung vô độ, chết oan bị loài phi nhân đoạt mất tinh khí. Thứ tư là chết oan về lửa thiêu. Thứ năm là chết oan về nạn nước ngập chìm. Thứ sáu là chết oan về các thú dữ ăn thịt. Thứ bảy là chết oan về nạn té núi. Thứ tám là chết oan về nạn trúng thuốc độc, bùa chú yểm đảo, nguyền rủa, gọi quỷ nhập vào thây chết đứng lên. Thứ chín là chết oan về nạn đói khát. Ðức Như Lai nói qua về nạn chết oan có chín thứ, ngoài ra còn có vô lượng cái chết oan khác nữa không thể nói hết được.


Lại nữa ông A Nan ! Vua Diêm Vương kia làm chủ nhận ghi những danh sách của thế gian. Nếu những chúng sinh bất hiếu, ngũ nghịch phá huỷ Tam Bảo, hội pháp vua quan, huỷ bỏ giới cấm, vua Diêm Vương tuỳ theo tội nặng hay nhẹ, khảo xét mà phạt họ. Vì thấy vậy nên ta khuyên các hữu tình, thắp đèn tạo tràng phan, phóng sinh tu phước cho qua khỏi khổ ách, không bị các tai nạn.


Lúc đó, trong chúng có mười hai vị đại tướng Dược Xoa đều ngồi ở trong hội là : Ðại tướng Cung Tỳ La, đại tướng Mê Si La, đại tướng An Ðể La, đại tướng Át Nể La, đại tướng San Ðể La, đại tướng Nhân Ðạt La, đại tướng Ba Di La, đại tướng Ma Hổ La, đại tướng Chân Ðạt La, đại tướng Chiêu Ðỗ La, đại tướng Tỳ Yết La.


Mười hai vị đại tướng Dược Xoa đó, mỗi vị đều có bảy ngàn quyến thuộc Dược Xoa, đồng thời lên tiếng bạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Chúng con hôm nay nhờ oai lực của Phật, được nghe danh hiệu của Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, không còn sợ nơi đường ác nữa, tất cả chúng con đều cùng một lòng, suốt đời quy y Phật Pháp Tăng, thề xin đảm nhiệm tất cả hữu tình, làm việc nghĩa lợi, nhiêu ích an vui tuỳ nơi thôn xóm, thành quách, quốc ấp nơi đồng không nhàn vắng, hoặc trong rừng. Nếu lưu truyền Kinh nầy hoặc là thọ trì danh hiệu Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cung kính cúng dường, thì chúng con và quyến thuộc sẽ hộ vệ người đó, khiến cho họ được giải thoát tất cả khổ ách, muốn cầu nguyện gì, sẽ được đầy đủ, hoặc có tật ách, cầu độ thoát cũng nên đọc tụng Kinh nầy, lấy chỉ năm màu kết thành danh hiệu chúng con, sau khi được như nguyện rồi sẽ mở ra.


Bấy giờ Ðức Thế Tôn khen các vị đại tướng Dược Xoa rằng : Lành thay ! Lành thay ! đại tướng Dược Xoa, các ông muốn báo ân Ðức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thường làm lợi ích an vui cho tất cả loài hữu tình.


Lúc đó, Ngài A Nan bạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Pháp môn nầy tên gọi là gì ? Chúng con phụng trì như thế nào ? Phật bảo Ngài A Nan : Pháp môn nầy gọi là Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Ðức, cũng gọi là Kinh Thập Nhị Thần Tướng Nhiêu Ích Hữu Tình Kết Nguyện Thần Chú, cũng gọi là Kinh Bạt Trừ Nhất Thiết Nghiệp Chướng, nên phụng trì như thế.


Bấy giờ, Ðức Phật nói lời đó rồi, các vị đại Bồ Tát và các vị đại Thanh Văn, vua, quan đại thần, Bà La Môn, cư sĩ, trời, rồng, Doạ xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người và chẳng phải người, tất cả đại chúng nghe Ðức Phật nói xong, ai nấy đều vui mừng tin theo phụng hành.


BÀI TÁN


Nơi hải hội Dược Sư

Rực rỡ quang sáng bừng

Tám đại Bồ Tát giáng cát tường

Bảy Phật giúp tuyên dương

Vầng nhật nguyệt thường soi

Phúc thọ hưởng lâu dài.


Nam Mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật. (108 lần)

Nam Mô Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát (3 lần).

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát (3 lần).

Nam Mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát (3 lần).

 

HỒI HƯỚNG


Tụng Kinh công đức hạnh thù thắng

Bao nhiêu phước đức đều hồi hướng 

Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh

 Sớm được vãng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang

Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não

Nguyện được trí huệ hiểu chân thật

Nguyện khắp tội chướng đều tiêu trừ

Ðời đời thường hành Bồ Tát đạo

Nguyện sinh sang cõi Tây phương Tịnh độ

Chín phẩm hoa sencha mẹ

Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh

Bồ Tát bất thối làm bạn lành

Nguyện đem công đức nầy

Hướng về khắp tất cả

Ðệ tử và chúng sinh

Ðều trọn thành Phật đạo.


Tam quy y


Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)


Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ tạng Kinh, trí huệ như biển. (1 lạy)


Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)

 

Nguyện đem công đức nầy

Trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh

Trên đền bốn ân nặng

Dưới cứu ba đường khổ

Nếu có ai thấy nghe

Liền phát tâm bồ đề

Khi xả báo thân nầy

Ðồng sinh về Cực Lạc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11646)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11971)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11122)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11360)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12077)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12571)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10775)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17999)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9960)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10184)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12361)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15356)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11256)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12119)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15381)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12013)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12425)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11196)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12097)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10627)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12567)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13180)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14851)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12700)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16588)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12274)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11866)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13546)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11964)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11853)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11647)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12776)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12626)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15671)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13636)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12914)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9883)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18027)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11181)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9088)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12192)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13063)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10323)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12206)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15326)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16618)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12230)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11493)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14281)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24621)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10702)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant