Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chú Thích

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11266)
Chú Thích

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank
PHẦN PHỤ LỤC
 

CHÚ THÍCH

1. Xem Giải thoát trong lòng Bàn Tay Bạn. (bốn năng lực chống lại) và (nghiệp).

2. Xem Lạc của Lửa Bên Trong của Lama Yeshe, gồm những chỉ dạy của ngài về tum-mo từ Sáu yoga của Naropa.

3. Năm 1981-82 Lama Yeshe sửa soạn mẻ đầu tiên các viên thuốc chu-len theo những thể thức truyền thống, dùng những nguyên liệu tự nhiên cực kỳ giá trịdiễn tả chi tiết trong một cuốn sách nhỏ xuất bản bởi nhà xuất bản Wisdom vào lúc đó. Những viên thuốc được ban phước gia bị bằng trì tụng một triệu thần chú Heruka Vajrasattva. Mùa hè 1982, năm mươi học trò Pháp từ khắp thế giới đã dùng những viên thuốc này dưới sự lãnh đạo của đại thiền giả quá cố Geshe Jampa Wangdu và làm những cuộc nhập thất thành côngTrung Tâm Ẩn Cư Tushita, Dharamsala, Ấn Độ, chứng minh sự thực hành này không chỉ dành riêng cho những người Tây Tạng nữa. Những cuộc nhập thất ngắn ngày này vẫn còn được hướng dẫn ở một số trung tâm FPMT, dùng những viên thuốc được làm ở Viện Y Học và Chiêm Tinh Học Tây Tạng ở Dharamsala

4. Xem Giới Thiệu vào Tantra.

5. Xem phụ lục 2, bản dịch và giải nghĩa thần chú này. Xin xem thêm phụ lục 3, về phương pháp sử dụng thần chú này.

6. Xem Phương Pháp Trực Tiếp và Không Sai Lầm của Lama Zopa về những giáo huấn đầy đủ về nhận lãnh những điều luật.

7. Một số người cũng đặt một torma thứ tư trong chén cúng tượng trưng sự dâng cúng thức ăn. Nếu không, chén này có thể chứa một số thức ăn khác hay nước. Dầu nó chứa gì cũng được dâng cúng mỗi ngày. Lama Zopa Rinpoche nhấn mạnh rằng những thức ăn khác có thể thay thế cho những bánh torma truyền thống, như Lama Yeshe đã nói. Có nhiều biến thái trong những phẩm vật nghi lễ này, và các bạn nên hỏi lama của bạn để biết cần làm gì.

8. Một cách gọn để ban phước, gia bị torma là như sau : Trước hết tụng HA HO HRI ba lần với hai bàn tay bắt đúng ấn, bàn tay trái trên tay phải, mở ra, đối diện nhau, ngón tay chỉ thẳng. Với sự trì tụng này, tất cả lỗi lầm về màu sắc, hương, vị và tiềm năng đều được tịnh hóa, và torma trở thành cam lồ phúc lạc. Rồi trì tụng OM AH HUM ba lần. Cam lồ tăng trưởng lớn rộng và được ban phước. Hãy quán tưởngtrở thành vô tận. Sau đó, làm sự cúng dường bên ngoài : OM VAJRASATTVA ARGHAM… SHABTA PRATICCHA HUM SVAHA. Cuối cùng, tụng đọc tán thán Nyi-me-ye-she… từ bài sadhana, thay thế …ch’ak-s’ašl-toš (tôn kínhtán thán) bằng …la-ch’al-ts’ašl trong dòng cuối. Với một nghi lễ ban phước dài hơn, bạn có thể thực hiện sự cúng dường bên trong, chẳng hạn từ sadhana Vajrayogini, hay sự ban phước của Heruka Vajrasattva tsok như đã giải thích trong phần 4 của cuốn sách này.

9. Geshe Tsulga, đại học Phật học viện Sera-je (và là thầy dạy thường trựctrung tâm EPMT bờ biển phía đông Hoa Kỳ) giải thích rằng bạn có thể dâng cúng torma này mỗi ngày, quán tưởng rằng bạn dâng cúng một phần “tươi mới” của nó mỗi lần ; hay bạn có thể đặt một bánh bít-quy hay thực phẩm khác với torma và cúng như là torma chính yếu mỗi ngày. Thời gian tốt nhất để cúng torma là trong thời chót của mỗi ngày. Sau khi trì tụng thần chú, trước lúc dâng cúng và tán thán, hãy ban phước gia bị torma như trên ; rồi quán tưởng rằng những chữ HUM trên lưỡi của Heruka Vajrasattva và Yum Nyem-ma Kar-mo chuyển hóa thành những ống rỗng ánh sáng cầu vồng bề rộng bằng một hạt lúa mạch. Với sự trì tụng thần chú OM VAJRASATTVA SAPARIVARA IDAM BALINTA KAKA KAHI KAHI, những chữ ấy tỏa sáng đến torma và rút ra tinh túy của nó là đại lạc. Rồi trở lại với sadhana.

10. Hộ pháp đặc biệt là Mahakala Bốn Tay. Lý tưởng là bạn dâng cúng torma này ba lần : một lần vào lúc bắt đầu nhập thất, cái tiếp vào khoảng giữa, và cuối cùng, khi cuộc nhập thất của bạn đã kết thúc lễ kang-soš (thành tựuphục hồi) Mahakala có thể được thực hiện khi bạn làm sự cúng dường này.

11. Lama Zopa Rinpoche nói rằng sự dâng cúng torma thứ ba này có thể làm chỉ một lần, vào lúc bắt đầu nhập thất. Tuy nhiên, nó cũng có thể được làm mỗi ngày, hay ba lần trong kỳ nhập thất, cùng với kang-soš Mahakala, như ở trên.

12. Xem Giải Thoát trong Lòng Bàn Tay Bạn về những lợi lạc của việc cúng nước.

13. Việc tương tự áp dụng cho lễ tsok puja Heruka Vajrasattva. Geshe Tsulga nói rằng trong nhập thất, tốt nếu làm lễ tsok Heruka Vajrasattva mỗi ngày, chừng nào nó không cản ngại bạn đạt đến mục tiêu là một trăm ngàn thần chú. Bạn cần nhất định làm lễ tsok đó vào ngày mười và hai mươi lăm mỗi tháng Tây Tạng, là những ngày lễ tsok thường lệ.

14. Geshe Tsulga giải thích rằng để có một tích tập hoàn hảo và để nhận những ban phước gia bị của Heruka Vajrasattva một cách nhanh chóng, mạnh mẽ và liên tục, bạn nên trì tụng ye-she paš-nga. Sau khi bạn đã trì tụng xong một trăm ngàn thần chú Vajrasattva, hãy trì tụng mười ngàn lần khác (nghĩa là một phần mười của tổng số), thay thế những chữ HA ANDZE SVAHA cho chữ PHAT ở cuối thần chú thường lệ. Như thế, bây giờ nó chấm dứt là …SAMAYA SATTVA AH HUM HA ANDZE SVAHA. Lễ puja Dorje Khadro bằng lửa có thể làm sau đó.

15. Geshe Tsulga nói rằng bạn cần đến một trăm ngàn biến thần chú và làm một puja lửa để đủ điều kiện cho một số hoạt động, như những hoạt động được đề cập đến trong một cẩm nang do lama Ngul-chu Dharmabhadra kết tập. Tự quán đảnh là một ví dụ của các hoạt động đó. Dĩ nhiên, bạn có thể làm một puja lửa với bất kỳ bao nhiêu biến thần chú, nhưng nếu nó ít hơn một trăm ngàn biến, bạn sẽ không đủ điều kiện để làm những hoạt động đặc biệt ấy. Mỗi hóa thần của những hoạt động riêng (laš-tsok) của vị ấy.

16. Tây Tạng : tsa-me-nga ; nghĩa đen “năm cái không có sự chọn lựa.” Nghĩa là bạn không có sự chọn lựa mà chỉ tái sanh vào địa ngục khi cuộc đời trong đó bạn đã tạo ra hành động ấy chấm dứt.

17. Xem trang 268 trong đó Lama giải thích tại sao ngài đôi khi không làm điều này.

18. Đối tượng chánh cho sự quy y cũng có thể là Vajradhara, như lama giải thích trong phần bình giảng chính.

19. Xem chú thích 16 ở trên. Trong khi theo những hạn định chung, năm tội ngũ nghịch là không thể sám hối, thì những phương pháp đầy năng lực của tantra cho phép bạn tịnh hóa được chúng.

20. Xem thêm “Tọa cụ ngồi thiền,” trang 146 và trang 265 chỗ Lama giải thích làm cách nào để tạo ra một chỗ ngồi thiền có thể mang đi được.

21. Lama Yeshe đã tổ chức Kỷ Niệm Kinh Nghiệm Giác Ngộ (EEC) đầu tiên, một tụ hội quốc tế những đệ tử Tây phương của ngài ở Bodhgaya, Ấn Độ, vào năm 1982. Khóa sáu tháng gồm những giảng dạy, quán đảnhnhập thất này có hơn hai trăm người học, với gần một trăm tăng và ni. Từ khi Lama tịch, Lama Zopa Rinpoche đã tổ chức thêm hai khóa EEC, lần thứ tư vào năm 1995-96.

22. Buồn thay, đây quả thật là buổi nói chuyện cuối cùng của Lama ở Viện Vajrapani. Dù nói thế, vài tháng sau, ở Nepal, sức khỏe ngài xuống nhanh chóng, và ngài ra đi ở Los Angeles ngày 1 tháng 3 năm 1984. Vài ngày sau, Lama được làm lễ trà tỳ ở Vajrapani, nơi một cái tháp đẹp đẽ được dựng lên để tưởng nhớ ngài.

23. Bản dịch sadhana ở đây phối hợp bản dịch nguyên thủy của Lama – nằm rải rác trong bài bình giảng – với bản dịch của Martin Willson trong Heruka Vajrasattva : Sadhana và Lễ Tiệc (NXB Wisdom, 1984), một bản dịch sát nghĩa bản văn Tây Tạng của Lama.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19739)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23991)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41251)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19723)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24032)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21756)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23331)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27523)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26589)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29357)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33236)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20216)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25806)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20946)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31359)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38625)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21465)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44303)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29867)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42262)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22166)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45810)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32147)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23990)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24428)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29318)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33946)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27711)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32187)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21103)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28879)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28119)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22092)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21460)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19543)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19493)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19851)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19284)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29234)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20646)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28330)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23678)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33233)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31880)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21427)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39682)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21588)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19407)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26435)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24857)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21776)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22414)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29172)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20490)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23562)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21268)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35380)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24579)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant