Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vạn Pháp Qui Tâm Lục

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 26516)
Vạn Pháp Qui Tâm Lục

VẠN PHÁP QUI TÂM LỤC
Thiền Sư Tổ Nguyên 

Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Đắc Pháp

MỤC LỤC
Lời người dịch
Lời giới thiệu của cư sĩ Thể Như
Lời nói đầu của tác giả
CHƯƠNG I Cảnh Tỉnh Tục Mê
CHƯƠNG II Phật Nho Luận Lý
CHƯƠNG III Thích, Đạo Biện Luận
CHƯƠNG IV Đốn Ngộ Tu Chứng
CHƯƠNG V Giáo Thừa Sai Biệt
CHƯƠNG VI Duy Tâm Tịnh Độ
CHƯƠNG VII Năm Tông Phái Thiền
CHƯƠNG VIII Mười Loại Ma Sự
CHƯƠNG IX Dẫn Chứng Lời Kinh
CHƯƠNG X Khuyên In Bố Thí
Lời bạt của Cư Sĩ Thể Như
Lời sau sách của Đổng Hư Tử
Phụ lục:
1- Vô tâm luận của Tổ Bồ Đề Đạt Ma
2- Bồ Đề Đạt Ma Thiền Sư Quán Môn
3-Luận Đại Thừa Khai Tâm Hiển Tánh Đốn Ngộ Chơn Tông của Thiền Sư Đại Chiếu

VẠN PHÁP QUI TÂM LỤC

Cuốn VẠN PHÁP QUI TÂM LỤC này do Thiền Sư Tổ Nguyên người Trung Quốc trước tác vào đời vua Khang Hi năm thứ 15 (1676 T.L) nhà Thanh.

Ngài Tổ Nguyên là một vị thiền sư đắc đạo nổi tiếng của Trung Quốc thời bấy giờ. Ngài nối pháp dòng Lâm Tế đời thứ 33, là đệ tử của Thượng Lam Thiên Phong Hòa ThượngGiang Tây, ngài trụ núi Tiểu Dương ở Yên Kinh, thủ đô nhà Thanh, ngày nay thuộc Bắc Bình.

Quyển Lục này chẳng những là một tài liệu vô giá cho những vị đang nghiên cứu và tu theo Thiền Tông, mà lại còn là tài liệu qúi cho những vị đang tu theo đạo Tiên, đạo Nho, tất cả đều được ngài Tổ Nguyên phân tích một cách rõ ràng về chỗ sổ trường và sở đoản của mỗi nhà, và đưa ra một phương pháp dẫn đạo rất thích đáng.

Chúng tôi dịch quyển Lục này với chủ đích: thứ nhất là làm tài liệu tu học cho Tu viện; thứ hai là giúp tài liệu cho những vị đang nghiên cứu và tu theo Thiền Tông; thứ ba là để minh định đường lối tu tập của Tu Viện Chơn Không.

Hiện tại khi nói đến tu thiền, người ta thường nghĩ đến hoặc là tu theo thiền Minh Sát của Nguyên thủy, hoặc là tu theo những phương pháp của ngoại đạo như YOGA, như phương pháp “Chuyển pháp luân” (cho tư tưởng chạy vòng theo châu thân), phương pháp Thai Tức của Tiên gia (luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần...)... Họ đinh ninh Thiền Tông đã chết ở Việt Nam và nhường chỗ cho Tịnh Độ Tôngngoại đạo. Quyển Lục này và những quyển sách do Tu Viện Chơn Không xuất bản là để trả lời rằng Thiền Tông vẫn còn sống ở Việt Namhiện có người đang tu.

Quyển Lục này chúng tôi dịch theo bản của thầy Tỳ kheo Thừa giớiĐịnh Huệ khắc bảng in vào năm Quang Tự thứ 34 (1908 T.L). Chúng tôi có lượng bớt lời tựa của Tiến sĩ Kim Hoằng, tiến sĩ Trịnh Tế Thái cả hai đều giữ chức vụ quan trọng trong Hàn Lâm Viện triều Khang Hi, ông Kỳ Huân Mộc làm chức cao Mật Nhiệm ở bộ Hồng Chương, lời bạt của nhóm người tái bản, lời bạt của ông Thông Tế Tổ Quán. Theo lời tựa của tác giả có nói đến phần phụ lục gồm mười hai bài kệ tuyệt cú tựa là “Độn Thế Sơn Cư”, nhưng ở bản này chúng tôi không thấy.

Chúng tôi dịch quyển lục này là do sự khuyến khích của bổn sư chúng tôiThượng Tọa Thích Thanh Từ, và sau khi dịch xong chúng tôi có trình cho người giảo chính lại. Tuy thế, nhưng chắc thế nào cũng có điều sơ sót, xin độc giả lượng thứ cho.

Tu Viện Chơn Không Trung Thu năm Quý Sửu (1973)
Tỳ kheo THÍCH ĐẮC PHÁP

LỜI GIỚI THIỆU

Tâm là thể của muôn pháp, muôn pháp là dụng của tâm. Pháp chẳng lìa tâm, ngay sóng là nước. Thể hay phát dụng, như nước động thành sóng. Thế nên biết, tất cả pháp là tâm vậy.

Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú. Nhiễm tịnh tuy sai khác, nhưng tóm lạibóng dáng của tâm. Nếu ngộ chơn tâm vốn không (rỗng), muôn pháp tự nhiên tiêu mất.

Nay thiền sư Tổ Nguyên ở núi Tiểu Dương, là cháu trong đạo của Đổn Thôn Phù Thạch Lão Nhơn, là đệ tử của Thượng Lam Thiên Phong Hòa ThượngGiang Tây. Ngài nghiên cứu thông suốt giáo điển, thâm đạt Thiền Tông, liễu đệ nhất nghĩa chứng tối thượng thừa, biện tài vô ngại, thật là cây phướn pháp vậy. Thiền sư vì lòng thương muốn dẫn dụ người hậu học, nên trao quyển “Qui Tâm Lục” để chỉ thẳng cái diệu nguyên. Trong lục này, thật tế là mỗi lời đều kiến tánh, mỗi câu đều minh tâm, có thể hay rửa sạch tà chấp, quét trừ dị kiến, chứng thẳng Bồ Đề, thoắt thành Phật đạo. Thật là thuyền từ nơi biển khổ, người dẫn đường nơi lối rẽ.

Tôi nhờ khánh hạnh đời trước mà gặp được sách này, liền dứt hết hồ nghi, thấu rõ tâm địa. Tôi tài năng quá vụng về, tri kiến lại cạn cợt, không đủ để phát minh lẽ thâm áo. Nên lược viết lời tựa để tỏ lòng biết ơn thầy.

Ngày rằm tháng riêng, năm Đinh Tỵ, đời vua Khang Hi.
Cổ Yến Thể Như Cư Sĩ Lưu Phương Mộc

Kính đề

LỜI NÓI ĐẦU

 Trước không kiếp, trước Phật Oai âm dương, Phật và chúng sanh đều không có tên gọi, nhưng mỗi mỗi đều có đủ một Viên Minh Cảnh.

Chúng sanh vô cớ, từ trong tịnh bạch sáng suốt, biến sanh thế giới chúng sanh nghiệp quả, sanh tử, tử sanh nối không dừng, mê chìm trong ba cõi, mò mẫm trong chín loài, từ ấy đến nay mê mờ không một ngày ngộ. Nếu chẳng chặt đứt dòng lưu lãngtrở về nguồn, thì lúc nào mới có thể giải thoát?

Phải ngộ muôn pháp trở về nhất tâm, là chuyển thế trí để thành Phật trí. Có thể gọi là gom trăm dòng làm một tánh ướt, nhồi bụi bặm lại làm một khối, nấu chảy vòng xuyến làm một chất vàng. Biến tô lạc làm thành một vị. Pháp nhất tâm này lý sự đều tròn đủ. Mười phương chư phật, tất cả chúng sanh đều đồng tâm này, không thiếu mà cũng không thừa. Chư phật đã giác ngộ, chúng sanh chẳng nên biết, nên có tên phàm thánh mê ngộ.

Tôi chẳng chịu rũ tay đứng nhìn, nên chỉ ra một con đường chánh trở về tâm. Người xưa nói: “Trên đỉnh núi Diệu Cao từ xưa đến nay chẳng cho bàn bạc, đầu non thứ hai chư Tổ tóm lược dung hoà nói cho hiểu ”. Cho nên tôi mượn văn vấn đáp để nói mười điều danh tướng hầu chứng minh nhứt tâm, và cũng để bố thí cho tất cả hàm linh.

Mười điều danh tướng gồm có: một là cảnh tỉnh kẻ thế tục, để bỏ ác về thiện. Hai là cùng nhà Nho nghị luận để quét trừ sự bài báng khác lạ. Ba là cùng Đạo gia biện biệt chổn tà nguỵ, để chẳng hướng ngoài tìm cầu. Bốn là Đốn ngộ tu chứng, vượt thẳng cảnh Phật. Năm là nói sự sai biệt của Giáo và Thừa; nhỏ nhiệm chỉ bày nhất tâm. Sáu là “Duy tâm tịnh độ”, để nói Phật chẳng từ ngoài lại. Bảy là thiền phân năm tông mà lý không hai. Tám là mười loại ma sự làm loạn chánh định, để dự phòngnuôi dưỡng đạo nghiệp. Chín là dẫn chứng lời kinh, hầu đoạn trừ nghi ngờ, và nương vào đó mà sanh lòng tin. Mười là khuyên nên in mà bố thí, hầu báo đáp ân Phật.

Tôi thừa hưởng căn lành rất ít, chợt thấy được một góc chỗ chí đạo, cho nên trình bày cái thấy hẹp hòi của tôi. Xin các bậc cao minh phủ chính cho, thật tôi chẳng phải ức kiến mà chỉ thuận theo Phật thừa. Nếu như có người học đời sau, xem quyển lục này có sai, tôi xin tha thiết sám hối những lỗi lầm về pháp của tôi. Nếu hợp với thành tâm, trên y lời dạy mà vâng làm, ngày kia sẽ đồng đến hội Long Hoa thọ ký thành Phật có phần.

Ngày Phật thành đạo, tháng 12, đời vua Khang Hi năm thứ 15, nhà Đại Thanh (T.L 1676)

Tổ Nguyên Siêu Minh Thiền Sư
 
 

WP: Hoàng Ngọc Anh
Source: thuvienhoasen

Ý kiến bạn đọc
16 Tháng Mười Hai 201414:48
Khách
Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát . Công Đức Vô Lượng ! Công Đức Vô Lượng ! Chân thành cám ơn Bậc Đại Tri Thức đã bỏ công dịch thuật, và các bậc Đại Hộ Pháp (chư vị Đồng Đạo) đã bỏ công sức và thời gian lưu truyền lời Khai Thị của Chư vị Tổ Sư .
Nguyện cầu Chánh Pháp mãi mài trường tồn .
Nguyện cầu các bậc Thiện Tri Thức trụ thế dài lâu để trang nghiêm đạo tràng và giáo hóa chúng sinh sâu rộng .
Nguyện tất cả luôn tinh tấn tu hành, nhất thời đồng chứng đắc quả vị Phật .
Con xin y giáo phụng hành ! Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật . Nam Mô A Di Đà Phật .
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12546)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10460)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12403)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11708)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28883)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12098)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13071)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11503)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12433)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17517)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53183)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35567)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21528)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10729)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19343)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12476)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26148)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13392)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14446)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16127)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13771)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16910)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17676)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13214)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12575)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11669)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11676)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14574)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20547)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19117)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19666)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18778)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12250)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12389)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13946)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15135)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15108)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14040)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15578)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11474)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17273)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15048)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20305)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14669)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13925)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11786)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15114)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13047)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22953)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14608)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11724)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13217)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16957)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18406)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11991)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11561)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15919)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12948)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18983)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18522)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant