Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương I: Cảnh Tỉnh Kẻ Tục Mê

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10100)
Chương I: Cảnh Tỉnh Kẻ Tục Mê

VẠN PHÁP QUI TÂM LỤC
Thiền Sư Tổ Nguyên 
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Đắc Pháp

Chương I
CẢNH TỈNH KẺ TỤC MÊ

Người thế tục hỏi: Tôi muốn thường ăn chay, có công đức chăng?

Thiền sư đáp: Các loài có vẩy, có mai, có lông mao, lông vũ, thể chất nó tuy khác với người, nhưng sự hiểu biết và sự đau khổ đâu khác chi người. Bởi đời trước nghĩ sai, nên đời này hình hài có khác. Nếu như một lòng tín thành dứt ăn thịt, giữ giới sát, thật là bậc “Đại đức quân tử”. Có thể bảo là người nhân từ, người thiện. Nếu quả ông ăn chay, giữ giới suốt đời không sờn lòng, chẳng những thêm nhiều phúc và thọ mà còn gieo được chánh nhơn giác ngộ. Khá thương cho người đời không trí huệ, tham đắm vị ngon mặc tình đồn chứa, ra tay sát hạt, tạo tác muôn ngàn. Chỉ ngon qua ba tấc lưỡi, một ngày kia cải đầu đổi mặt, lần lượt nuốt ăn. Lúc ấy đau khổ hối hận không người giúp cho.

HỎI: Người đời đều cho heo, dê, gà, ngỗng, các loài có vẩy, có mai, có lông mao, lông vũ v.v. trời sanh ra các loài này để làm đồ ăn cho người. Nếu không giết để ăn, dùng chúng làm việc gì?

ĐÁP: Người đời ăn thịt đương nhiên, buông lung tâm ý mổ giết để thích khẩu, khoái bụng. Đâu chẳng biết, tất cả chúng sanh dưới nước, trong đất, trên không, trên bộ, chẳng quan là do nghiệp lực quả báo mà có thân xác khác nhau. Người đời tuy nhờ phước nhứt thời mà khinh thường sát hại quá nhiều rồi. Tha lực yếu kém làm sao chống chỏi nổi hận oán kia? Có ngày sẽ báo đền oan trái. Quả thật nếu heo, dê v.v. trời sanh ra làm đồ ăn cho người, còn ở thế gian những loài sài lang, hổ báo, muỗi mòng, chí rận v.v. vô hạn ác thú hung cầm đều hay ăn người, đâu không phải trời sanh? Giả sử người nam kể nữ đều làm đồ ăn cho loài vật có nên không? Người đời không rõ tạo nghiệp sẽ có thường mạng lẫn nhau. Không biết cớ sao lại cho việc sát sanh là việc đáng nên làm, thật quá ngu muội.

HỎI: Tôi thường nghe người đời có nói: “Người nhiều lòng tốt cũng như ăn chay rồi”. Lý này thế nào?

ĐÁP: Bậc nhân đức quân từ, người hiền có lòng nhơn từ, làm lợi ích cho người, cứu tế loài vật, nhóm công chứa đức, cho đến những chỗ động dụng hay chỗ làm việc, thấy sanh linh rơi vào chỗ chết, lúc ấy đâu không khởi lòng trắc ẩn cứu cho được sống, có lòng từ bi như thế mới bảo là người tốt. Vô cớ giết nó cho vào miệng ta, hoặc cầm dao bén mổ bụng, hoặc nắm dao nhỏ đâm vào tim, lóc da, đánh vẩy, cắt cổ, bổ vỏ hay vào lò nướng, trăm cách tạo tác làm cho ngon miệng, khoái bụng, lòng thương xót hoàn toàn không, như vậy lòng tốt ở chỗ nào? mà lại nói lời mê như thế? Tội lỗi kia làm sao có thể sám hối? Tôi nay nói rõ ông hãy lắng nghe: Quả như ông một đời giữ giới sát, ăn chay suốt đời chẳng chán, dù tâm ông chẳng tốt, phải đoạ vào tay người giết, hoặc trong vạc sôi lò lửa.

HỎI: Tôi tuy nghèo mà trong sạch, chẳng bao giờ trộm cắp. Vậy thế nào?

ĐÁP: Không riêng gì lấy tài vật mới gọi trộm cắp, mà tham ô kẻ lương thiện, dùng tà thuật lừa đảo, xúi người kiện tụng, rủ rê dụ dỗ người cờ bạc, hại người tù tội, làm cho người nghiêng ngửa, hại người nơi hiểm nguy, làm cho hao tài tốn của, tráo đổi vật tốt của người, thiếu nợ chẳng trả, xâm lấn người ngu, chiếm đoạt kẻ yếu. Tất cả việc bất lương đều là trộm cướp cả. Nếu là người có trí huệ, thấy người giàu sang nên khởi lòng kính mến, mà hận mình đời trước không tu phước, đời này nghèo khổ phải cam chịu. Lại phát khởi tín tâm, tu phước lành, chứa công đức, những việc ác chớ làm, nên làm các việc lành. Tự nhiên không có phụ người chứa nhóm công đức lành vậy.

HỎI: Giữ tài sản một cách công bằng, nhưng chẳng bỏ hẳn lòng tham tích chứa, tùy sức mình mà kinh doanh. Vậy như thế nào?

ĐÁP: Giữ tài sản một cách công bằng thì nên. Tuy nhiên vật báu trên đời chứa lâu thành họa. Nếu vật báu có đến chớ nên chứa, nếu chứa chớ chứa lâu. Còn như tham cầu không chán, nhận ngang không thẹn, tuy một lúc được giàu có, nhưng chẳng khỏi tối lo sáng tính.

Kinh Phật nói: “Tài sản hiện tại của người đời là của chung của năm nhà. Năm nhà là nhà vua quan, nhà nước lửa, nhà trộm cướp, nhà giặc giã, con cháu tiêu phá. Người đời dại dột, đắng cay suốt cả một đời, tạo cho nhiều tiền của, mong được vĩnh viễn giàu có. Đâu biết đấy là phần của năm nhà một ngày kia sẽ tan nát. Như vậy giữ của một cách công bằng mà còn chẳng lâu thay, huống là giựt ngang hay lừa đảo mà có thề thường còn ư?”

HỎI: Tôi thường ít ham muốn về sắc dục, chỉ có một vợ, việc tà dâm tôi đoạn hẳn chẳng phạm. Vậy thế nào?

ĐÁP: Hai chữ sắc dụccăn bản của việc sanh tử. Trong các điều ác việc tà dâm tư tình gian dối là bậc nhất. Từ xưa tới nay nó là việc mất đạo tan đức, lại chuốc họa vào thân, không thể kể cho hết. Ngay nơi việc thích rượu chè, ham tiền của còn có thể chế, chỉ có một cửa ải sắc dục còn khốc liệt hơn gấp bội. Bởi chúng sanh gốc từ dâm dục mà tánh niệm phải tiếp nối sanh tử. Tập quán từ trước quá thuần thục, nếu không dùng trí huệ quán chiếu thì dục nghiệp làm sao rõ? Kẻ tại gia khó đoạn hẳn sắc dục, nhưng cần yếu là phải giữ cho chơn chánh: chẳng phải vợ nhà nhất định không thể làm hạnh tà. Có một bọn tục tử thấy vợ con người, dáng dễ coi liền khởi tà tâm, rồi nghĩ mộ tham cầu. Như vậy thì lý trời đã mê, lòng người đã mất.

Kinh Phật nói: “Gian dâm vợ người bị quả báo tuyệt tự. Gian dâm con gái người bị quả báo con cháu dâm dật, phóng túng”. Ông có thể đại khái nhìn những nhà người hiểu dâm hạnh xấu, bởi tiếp nối dòng tệ hại nên lần lần tiếng nhơ lan đến mọi người. Cổ nhơn nói: “Ta chẳng dâm vợ người, người chẳng dâm vợ ta”. Lại có một hạng chúng sanh mang nghiệp si, thấy người đàn bà khác vốn không phải vợ mình, cho người ấy đẹp, rồi bày điều gian dâm lừa đảo, trở lại bỏ bê vợ nhà chẳng đoái hoài. Hoặc thích gần gũi bỡn cợt trẻ ngoan. Hoặc tư thông với vợ người làm công, và khiến kẻ dưới lừa đảo người trên…muôn ngàn dâm nghiệp kể ra không xiết.

Lại có kẻ đọc sách tài tử, cũng cho học là người thông minh. Sách ấy miêu tả chuyện tư tình của phụ nữ nơi khuê môn, biên vào ca dao, làm thành sách vở, làm mê hoặc người thật thà, dẫn học vào tà niệm. Tội ác của kẻ ấy thật như núi cao, không thế nào cầu đảo mà hết được. Nếu là người có trí huệ phải nên tự hổ thẹn và tự ăn năn, mà đoạn tuyệt ngay nết tà dâm, thì cõi người cõi trời đâu đó có phần. Kẻ ngu ngày đắng miệng mà khuyên các ông: “Chỉ nhơn nghiệp dâm mà tội ác tạo ra nhiều lắm!”

HỎI: Dâm dục tội ác như vậy, khẩu nghiệp như thế nào?

ĐÁP: Trong mười nghiệp ác, chỉ có miệng là đã chiếm hết bốn rồi. Nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói ác là giết người không máu. Kẻ ấy còn hơn người làm ác nhiều. Làm bại hoạt việc lành của người, nói chỗ yếu của người. Bàn biệc quấy của người, luận việc lỗi của người, lừa đảo tiền của của người, cho đến việc bại hoại đạo đức, chôn vùi người mà cũng chôn vùi mình, đều do không ngăn được cái bệnh lắm mồm của mình. Cho nên tự chuốc họa rất nhiều.

Kinh nói: “Phật bảo ngài A-nan rằng người đời tai họa từ nơi miệng mà lưu xuất phải nên giữ gìn cái miệng còn hơn giữ lửa. Lửa dữ thiêu đốt tài sảnthế gian, lửa ác khẩu thiêu đốt tài sản bảy báu của mình”. Tất cả chúng sanh tai họa từ nơi miệng mình mà ra, nó là chiếc búa chém mình, là cái họa tai tiêu diệt mình. Nay có người muốn nuôi dưỡng đức hạnh, phải ẩn ác dương thiện, phát ngôn nên nói lời chơn thật, đàm luận không nên nói bậy, có hỏi có đáp, lời nói giản dị, khí sắc ôn hòa, thì chư Phật chư thiên gia hộ và cũng được người thương yêukính trọng.

HỎI: Tánh tôi thích uống rượu, như vậy thế nào?

ĐÁP: Tâm tánh mê mờ, chí khí bị chôn vùi, nhà cửa tan nát, lại còn mất mạng, phần nhiều do uống rượu mà ra, và chuốc họa tai không ít. Người đời mê rượu không chán, cho đến hình hài bị hủy thương, điên đảo cả lễ pháp, nằm lăn nơi phố chợ, la ó om sòm, phạm lỗi người trên mất hết danh dự, loạn dâm mất đức, muôn ngàn việc lỗi lầm nghịch ngợm là do tham uống rượu.

Người xưa nói: “Ngăn ông chớ uống rượu, nó là thuốc làm điên loạn chớ chẳng phải vị ngon. Nó hay khiến người tánh tình thuần hậu thành kẻ hung dữ dối láo”. Trong luật tứ phần nói: “Uống rượu có ba mươi sáu lỗi. Chẳng những người đời uống rượu phạm lỗi, cho đến la hán tham uống rượu cũng mất hết thần thông”. Chúng sanh mê muội, kẻ phàm phu sơ học phải giữ gìnkiêng cữ uống rượu.

HỎI: Xin nói ba mươi sáu lỗi gồm những gì?

ĐÁP: Uống rượu có ba mươi sáu lỗi là: bất hiếu với cha mẹ, khinh mạn thầy dạy, chẳng kính trọng Tam bảo, bài báng hàng Sa-môn, bươi móc tội người, thường nói lời vọng, vu người làm ác, đem lời thâm thọc hai đầu, nói lời hung ác hại người, là gốc của bịnh hoạn, là rễ của đấu tranh, tiếng ác đồn khắp, người hiền đều chán, bài xích thánh hiền, khinh lờn trời đất, hư mất sự nghiệp, phá nát gia tài, thường không biết hổ thẹn, chẳng biết sỉ nhục, vô cớ đánh người ở, giết hại chúng sanh, gian dâm vợ người, trộm tài vật của người, lơ là với người hiền, gần gũi bạn ác, thường ôm lòng sân hận, ngày đêm lo rầu. Lấy đông đưa tây, giữ nam mắc bắc, nằm đường té rãnh, rơi xe té ngựa, gặp sông rơi xuống nước, cầm đèn bị cháy, tháng nắng nóng chết, ngày lạnh rét chết. Người uống rượu có những lỗi như vậy. Người quân tử nuôi đức, phải tự răn mình đừng uống rượu.

HỎI: Tôi có chỗ tốt là khi bị người ta điểm nhục mà không giận dữ, nếu có chút phiền, nhưng khi biết rồi cũng hết. Vậy thế nào?

ĐÁP: Giận dữ là gốc của muôn điều chướng ngại, nhẫn nhụcđứng đầu của trăm phước. Người đời nói nhẫn nhưng mà chữ nhẫn rất khó, không phải là người trí huệ quyết không thể nhẫn được. Trừ ngoài Phật Tổ được như như chẳng động. Kẻ hào kiệt, người sơ học phần nhiều do không nhẫn mà bị thất bại, và bị hãm vào chỗ bất như ý. Kinh Phật nói: “Nhẫn nhục là bậc nhất”. Tục ngữ có câu: “Ăn được ba đấu tương chua, giấm đặc mới làm được tể tướng”. Kẻ phàm phu ở đời còn như vậy, huống là người học đạo không rộng lòng nhẫn nhục ư?

HỎI: Người đời nhiều lòng tham, gom góp tài sản cho thật nhiều. Tự bảo là để lại cho con cháu sau này được giàu có, được hay chăng?

ĐÁP: Kẻ ngu sithế gian ý cậy quyền thế, mê tâm chôn đức, có trăm cách khéo léo để lấy, dù được giàu có bất ngờ, nhưng có bao giờ được lâu dài. Nếu là người trí huệ nên phải chứa công nuôi đức, tuỳ khả năng mình mà kinh doanh, theo đúng mệnh trời, tự nhiên chư thánh phò hộ, âm thầm tăng trưởng phước lộc. Người đời chỉ biết vì con cháu lo làm giàu, chớ chẳng biết vì con cháu làm lành tạo phúc. Thế nào gọi là phúc? Kính trọng Tam bảo, chứa nhóm âm đức, cẩn trọng qui tắc của gia đình, dạy người cố gắng làm việc và học hành, đấy là tạo phúc.

Thế nào là cầu làm giàu? Không thành tín mê mờ thiên lý, dùng tâm máy móc, gom góp tiền của không hợp lý, đấy là cầu giàu có. Kẻ cầu giàu chẳng thạnh người tạo phúc sẽ hiển vinh. Há chẳng thấy kẻ giàu to ở đời, con cháu hư hèn, cờ bạc phóng túng, một ngày kia sẽ phá cửa nhà, cho đến mất thân mạng. Chuyện này thường có xảy ra, sao không lấy đó làm gương? Tục ngữ nói: “Được của không chánh đáng, bỏ được là tốt”. Người trí xem biệc này chưa khỏi lạnh lòng!

HỎI: Như đã mở bày, muốn làm người tốt phải xem tất cả như không, và thường thường kiểm điểm, phải vậy chăng?

ĐÁP: Muốn làm người tốt phải tự soi xét: suốt một ngày từ sáng đến chiều phải soi tâm mình và tự xét lý kia. Khi khởi tâm động niệm có cùng tâm trời hợp không? Hành động hàng ngày có cùng với người hợp không? Hằng thường tỉnh táo, không rơi vào tư riêng lâu ngày tâm được chánh, nhơn dục tự nhiên hết.

Nếu là người buông lung tâm ý, chẳng sợ trời phạt, chẳng sợ báo ứng, phi lễ mà hành động, mà tạo tá, lâu ngày chầy tháng, tích chứa nghiệp ác quá nặng, một mai phúc hết, các nghiệp đến bên thân, hiện đời gặp tai họa, khi chết đoạ ba đường ác. Kinh Phật nói: “Nghiệp đã tạo, giả sử trải qua trăm ngàn kiếp cũng không mất, khi nhơn duyên hội ngộ, mình phải trở lại chịu quả báo”. Thế nên biết, nhơn quả chẳng sai, người đời sau hãy tin chắc thật.

HỎI: Việc nhơn quả có nhiều người không tin. Vậy thế nào?

ĐÁP: Việc nhơn quả báo ứng chẳng sai chẳng lầm, giống như bóng theo hình, một mảy may không lộn lạo. Các bậc tiên thánh đã nói việc này rất rành rõ. Người sau ngu mê chẳng tin, phải nên tế nhị mà xét: Người đời có kẻ giàu sang, người bần tiện, có kẻ chết yểu, người trường thọ, có kẻ được vinh dự sủng ái, có người gian nan nhục nhã, có người khổn khổ, kẻ an nhàn, có người trẻ mà được đăng khoa, có người suốt đời thi chẳng đậu, có người rất giàu có mà không con, kẻ nghèo xơ xác mà nhiều người kế hậu, có người ấu niên, trung niên, lão niên khổ vui chẳng đồng, có người nghèo hay giàu sang suốt một đời, còn muôn ngàn việc sai khác nhau chẳng nhất định, ấy tất cả đều do nghiệp cảm nên. Người xưa nói: “Mùa xuân gieo một hạt thóc, mùa thu được muôn vạn hạt. Người đời làm thịện ác quả báo cũng như vậy” (xuân chủng nhất lạp túc, thu thu vận khoả tử, nhơn sanh vi thiện ác, quả báo hoàn như thể). Thế nên biết, sự vui buồn trong ba cõi, sự thăng trầm trong sáu nẻo, đều do tự mình tạo và tự mình chịu lấy, không phải từ bên ngoài đem đến cho mình.

HỎI: Tôi thấy người trung chánh lương thiện lại nghèo không một gánh lúc. Lại có bọn điêu ngoa hung ác mà ruộng đất cò bay thẳng cánh. Như vậy nhơn qủa há chẳng lầm ư?

ĐÁP: Tạo thiện ác chẳng đồng nhau, nên quả báo cũng chẳng nhất định: Có lúc báo ngay nơi thân mình, có khi báo nơi thân con cháu, có khi báo đời này, có lúc báo đời sau. Như có người ăn cơm hẩm, kẻ ăn cao lương. Người mặc áo gấm, kẻ áo lông. Lại có kẻ lầu son gác tía, lên xe xuống ngựa. Tất cả đều do đời trước tự làm điều thiện hay điều ác, mà nay chịu quả báo khổ hay vui, một mảy may chẳng sai chạy. Chỉ thấy kẻ hung ác mà được giàu sang, đâu biết được người ấy đời trước đã tu phước? Hoặc thấy người rất từ thiệnnghèo khó lại mạng yểu, ấy là do đời quá khứ tạo nghiệp ác mà ra.

Trang Tử nói: “Tên đạo chích theo đoàn quân chín ngàn người, hoành hành thiên hạ, xâm bạo các nước chư hầu mà tên ấy vẫn trường thọ”. Trong Luận ngữ sớ nói: “Hạng Thác bảy mươi tuổi làm thầy Đức Khổng Tử mà chết yểu”. Cho nên có người trong sạch chân chánh mà thân bần cùng. Hoặc có người tham ô mà giàu có. Chớ chấp hiện đời này có sai khác mà bài báng nhơn đời trước thì sai lầm vậy.

HỎI: Sự báo ứng của thiện ác, lý kia không sai. Có một bọn ngu si chẳng tin nhân quả, trở lại nói: “Lương tâm chẳng thể làm ra gạo. Nếu lương tâm hay vào nồi thành cơm thì cũng có thể nên làm”.

ĐÁP: Khá tức cười, thật là quá ngu si điên đảo. Ông, nếu lương tâm từ sáng đến tới không dối, thì phù hợp với lòng trời, lúc ấy thần cũng vui vẻ, người cũng hân hoan. Niềm hòa khí được cảm triệu, thì tự nhiên tươi vui. Kinh thi nói: “Niềm vui chỉ đến với người quân tử, và phước lộc sẽ đến với họ”. Nếu do chôn vùi đức hạnh mà được tiền của, bỏ tấm lòng mà được giàu có, thì mới trở lại bài báng lương tâm vô dụng, không thể vào nồi thành cơm. Đâu biết hạng người này đã mê mồ lý trời, trong bóng tối thần giận qủi hờn, giảm phúc tổn thọ, nghèo thiếu nạn tai, cho đến con cháu hư hèn, việc lạ đâu chẳng có.

Sách Văn Xương nói: “Người tu thân sửa hạnh, trời nhất định giáng cho trăm điều lành. Trái lại kẻ phản đạo bại đức, thần cũng đoạt năm phước”(1). Thế nên, phước thiện hay hoạ tai, lý nó tất nhiên nhất định như vậy. Nếu chịu cải ác làm lành, chẳng khinh lờn, tự nhiên Phật trời ngầm phò hộ, phước thọ được tăng trưởng.

HỎI: Người có lỗi biết ăn năn có thể được chăng?

ĐÁP: Đã là người ai chẳng có lỗi lầm, biết lỗi lầmăn năn chừa cải, thì điều lành nào chẳng lớn? Sự lỗi lầm ác hại chẳng phải có một. Nên nơi thân miệng ý phải luôn tỉnh táo, nhất định giờ phút nào cũng phải soi xét xem hành động mình có thích đáng hay không. Nếu là thiện nên làm, còn ác thì mau cải đổi. Sự đổi ác theo thiện như con bệnh ra mồ hôi, tự nhiên sẽ được may mắn, vui vẻ, chư thánh sẽ phò hộ cho.

HỎI: Giả sử chiếu xét chẳng đến, một lúc sanh tâm động niệm, chưa biết phải háng phục tâm ấy như thế nào?

ĐÁP: Người xưa trị tâm rất khít khao, cho nên gặt hái được nhiều kết quả to lớn. Tất cả những tâm thiện ác của con người đều do NIỆM. Khi niệm dấy động nên mau mau tỉnh giác. Tỉnh giác nó liền thành không. Thu nhiếp như vậy lâu ngày chầy tháng tự nhiên tâm chánh. Kinh Thư nói: “Buông lung niệm là người điên, chế phục được niệm là bậc thánh”. Lời nói này rất chi lý và nên theo đó mà hành.

HỎI: Người tại gia năm dục (2) cột trói, không thể thoát liền được, chưa biết có phương tiện gì để tu lần hay không?

ĐÁP: Người tại gia tu hành việc ấy rất khó, phải dũng mãnh kiên chí và thường lâu mới được. Nên trong lúc động tịnh hàng ngày, trong lúc rảnh rang hay lúc bận rộn, chỉ riêng đề khởi một câu A Di Đà Phật, rồi hồi quang phản chiếu, chỉ giữ một niệm. Giả như có nhiều vòng lửa xoay trên đầu nhất định cũng không bỏ một niệm này, mặc tình cho tám gió (3) đến xung kích ta, chẳng cho mất một niệm này, lâu ngày chầy tháng một niệm được thuần chơn. Trở lại đem một niệm này phá nát ra, lúc ấy tự tánh Di Đà mới hiện. Giả sử hành như vậy, suốt một đời chẳng ngộ, khi báo tận mạng chung (chết), tự giữ một niệm, thẳng đến đường chánh. Trở lại làm người một nghe ngàn ngộ, thấy tánh thành Phật đã có phần. Đây là yếu chỉ của biệc trở về tâm (qui tâm). Trái lại chờ hướng bên ngoài mà dong ruổi tìm cầu. Tự mình phải lời nói và hành động không trái, thì mới gọi là chơn chánh thọ dụng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19708)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23969)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41222)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19702)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24000)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21748)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23315)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27510)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26578)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29320)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33202)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20209)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25785)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20919)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31327)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38584)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21448)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44266)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29835)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42223)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22144)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45771)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32121)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23963)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24395)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29285)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33928)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27686)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32138)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21068)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28857)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21591)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28069)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22079)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21443)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19505)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19477)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19838)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19260)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29198)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20627)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28305)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23651)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33194)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31846)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21379)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39634)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21564)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19383)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26405)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24833)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21760)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22397)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29137)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22561)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23526)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21242)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35330)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24548)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant